Đền Quan tọa lạc tại phường Lào Cai, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, là nơi ghi dấu cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên thế kỷ XIII. Tương truyền, vị trí dựng đền chính là nơi đặt trại giam quân của quân đội nhà Trần trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại ấy. Theo dòng thời gian, với sự đan bện giữa ký ức lịch sử, những suy tưởng mang tính huyền thoại và những khát vọng hiện thế, ngôi đền trở thành nơi thờ vọng Quan Đệ nhị Giám sát – một hình tượng huyền thoại, vị thánh linh thiêng trong thần điện tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ của người Việt. Theo các bản văn chầu: “Vốn xưa ông ở thiên đình Con vua Thượng Đế giáng mình dương gian Dù ai có lệnh kêu van Khấn ông Đệ nhị thọ khang yên lành Thiên tư chính trực thông minh Giáng đền giáng phủ anh linh muôn phần Chữ rằng Thánh giáng lưu ân Đa tài đa lộc thiên xuân thọ trường”. Tương truyền, ngày 11 tháng 11 âm lịch là ngày chính Tiệc của Ngài. Vào dịp này hằng năm, các thanh đồng, đạo quan, những người mến mộ tín ngưỡng Tam phủ, Tứ phủ cùng nhân dân và du khách muôn nơi lại tìm về những nơi đền, phủ, điện thờ để kính dâng lên Ngài nén tâm hương, cầu mong sự che chở, phù trợ của Ngài. Đền Quan được xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa cấp Tỉnh năm 2015./. NGUỒN: BAN QUẢN LÝ DI TÍCH THÀNH PHỐ LÀO CAI
Lào Cai 2877 lượt xem
Tọa lạc tại phường Bình Minh, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, Đền Đôi Cô là nơi thờ phụng Đôi Cô Cam Đường – những vị nữ thần linh thiêng trong thần điện tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Tương truyền, các Cô vốn “Quê nhà ở đất xưa Đình Bảng/ Dòng nối dòng buôn bán vải tơ”. Vùng Cam Đường (nay thuộc thành phố Lào Cai) chính là nơi các Cô sau khi hóa đã hiển linh “Độ người trên bộ dưới sông/ Thuận buồm xuôi gió thong dong đi về”. Tưởng nhớ công ơn của tiền nhân, người dân trong vùng đã dựng miếu, đền, đời nối đời hương khói phụng thờ. Hằng năm, cứ vào ngày 13 tháng 9 âm lịch, chính quyền và nhân dân địa phương lại thành kính tổ chức khánh tiệc để bày tỏ lòng biết ơn đến các Cô, đồng thời để tôn vinh những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam, khẳng định tính dân tộc và nhân bản của tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ của người Việt, củng cố, làm bền chắc hơn nữa sự cố kết cộng đồng trên nền tảng sự chia sẻ niềm tin, ý thức hướng nguồn và lẽ đồng bào. Đền Đôi Cô Cam Đường được xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa cấp Tỉnh năm 2005./. NGUỒN: BAN QUẢN LÝ DI TÍCH THÀNH PHỐ LÀO CAI
Lào Cai 2721 lượt xem
Tương truyền cách đây hơn 700 năm, khi quân phương Bắc xâm chiếm nước ta, nơi đầu tiên phải hứng chịu sự tàn phá, quấy nhiễu của quân xâm lược là phố Bảo Thắng, châu Thủy Vĩ, tỉnh Hưng Hóa (nay là phường Lào Cai, thành phố Lào Cai). Khi đó, Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã nhận lệnh triều đình cùng binh sĩ theo đường thủy (dọc sông Hồng) lên chiến đấu, dẹp giặc phương Bắc, giữ yên bờ cõi. Để tưởng nhớ và đền đáp công ơn dẹp tan quân xâm lược, năm 1940, nhân dân xã Vạn Hòa đã lập lên Đình làng tại thôn Cánh Chín, thờ vọng Đức Thánh Trần và làm nơi hội họp của nhân dân. Đến năm 1947, cũng tại Đình làng Cánh Chín, bộ đội địa phương chọn làm sở Chỉ huy. Năm 1954, nơi đây lại tiếp tục được chọn làm địa điểm tổ chức hội nghị quân dân chính Đảng đầu tiên của thị xã Lào Cai sau khi Lào Cai được giải phóng. Năm 1980, nhân dân trong vùng đã xây dựng riêng một gian miếu nhỏ để thờ vọng Đức Thánh Trần. Đến năm 2005, nơi đây đã được UBND thành phố Lào Cai quyết định tôn tạo nâng cấp đền Vạn Hòa. Bên cạnh ngôi đền là Nhà bia tưởng niệm ghi công ơn 49 liệt sĩ quê hương Vạn Hòa đã hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Hằng năm vào ngày rằm tháng Giêng và ngày 20/8 Âm lịch (ngày giỗ Đức Thánh Trần) nhân dân trong xã lại tổ chức lễ trọng tại đền Vạn Hòa để tưởng nhớ công lao người xưa. Đền Vạn Hòa ngày nay là một trong những di tích lịch sử văn hóa nằm trong quần thể di tích: Đền Thượng, đền Mẫu, đền Cấm, đền Đôi Cô, Khu căn cứ cách mạng Cam Đường, chùa Tân Bảo, chùa Cam Lộ. Nơi đây cũng là điểm đến hấp dẫn du khách trong chuỗi du lịch tâm linh Phú Thọ - Yên Bái – Lào Cai. Mỗi năm đón hàng trăm lượt khách tham quan, chiêm bái, góp phần không nhỏ vào sự phát triển của địa phương. Với những giá trị lịch sử, văn hóa to lớn đó, việc xếp hạng đền Vạn Hòa là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương, đảm bảo an ninh, chính trị; giáo dục truyền thống, đáp ứng nhu cầu tâm linh của nhân dân. Nguồn “Báo Lào Cai điện tử”
Lào Cai 2726 lượt xem
Di tích lịch sử cách mạng đình Kim Bảng và hang lèn Cây Quýt thuộc thôn Kim Bảng, xã Minh Hóa (huyện Minh Hóa). Nơi đây gắn liền với những sự kiện lịch sử sôi động hào hùng của tỉnh Quảng Bình và của dân tộc trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Đặc biệt, nơi đây diễn ra sự kiện Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ Quảng Bình lần thứ II vào ngày 19/5/1949. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Minh Hóa có vị trí chiến lược quan trọng, là căn cứ địa cách mạng của tỉnh Quảng Bình. Đình Kim Bảng là ngôi đình không rộng lắm nhưng nằm ở vị trí thuận lợi giữa một vùng đất khá rộng và bằng phẳng. Từ Kim Bảng, theo các con đường bí mật xuyên rừng có thể tỏa về các ngả, vì vậy, các đại biểu có thể đến dự đại hội mà vẫn được bảo đảm bí mật, an toàn. Cạnh đình Kim Bảng còn có các hang lèn như hang Quýt, hang Diêm rộng và sâu, có thể tổ chức cho vài trăm người hội họp phòng khi bất trắc. Với điều kiện đó, Huyện ủy Tuyên Hóa đã bố trí lấy lèn đá phía ngoài hang Diêm làm nơi đặt vọng gác bảo vệ vòng ngoài, đồng thời bố trí lực lượng dân quân du kích canh gác suốt ngày đêm trong thời gian diễn ra đại hội. Còn hang Quýt được chọn làm nơi trú ẩn hoặc có thể làm nơi tổ chức đại hội khi có sự cố xảy ra. Nhân dân ở đây giàu truyền thống cách mạng, một lòng đi theo Đảng, Bác Hồ…Chính vì vậy, chỉ trong thời gian ngắn, 4 ngôi nhà dã chiến bằng gỗ, tranh, tre, nứa,…đã được dựng lên quanh đình Kim Bảng để phục vụ cho đại hội. Đồng bào Minh Hóa không chỉ góp công mà còn dốc hết của từ trâu bò, lợn, gà đến ngô, sắn, rau quả…ủng hộ cho đại hội. Hàng chục cán bộ, du kích và nhân dân được cử đến phục vụ đại hội trong suốt 12 ngày (đại hội diễn ra trong 9 ngày và 3 ngày cho công tác chuẩn bị). Quanh khu vực đình Kim Bảng, 8 vọng gác được đặt trên điểm cao và cắt cử người canh giữ nghiêm ngặt. Nhờ đó, đại hội đã được bảo đảm bí mật, an toàn tuyệt đối, thậm chí đến 7 ngày sau khi đại hội bế mạc thì thực dân Pháp mới biết được, chúng điên cuồng cho máy bay đến thả bom, đốt cháy đình.Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ Quảng Bình lần thứ II là một sự kiện vô cùng quan trọng trong lịch sử Quảng Bình. Nghị quyết do Đại hội thông qua đã đáp ứng kịp thời những đòi hỏi khách quan của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Quảng Bình. Đưa phong trào kháng chiến chuyển sang bước ngoặt lịch sử mới có ý nghĩa cực kỳ quan trọng không những với nhân dân trong tỉnh mà còn có ảnh hưởng tích cực đối với phong trào kháng chiến của cả nước. Di tích lịch sử cách mạng đình làng Kim Bảng và hang lèn Cây Quýt được xếp hạng cấp tỉnh theo Quyết định số 1088/Quyết Định -Uỷ Ban Thể Thao Du Lịch ngày 9-7-1999 của UBND tỉnh Quảng Bình. Đình Kim Bảng, hang lèn Cây Quýt với “Quảng Bình quật khởi”, ngày 15-7, đã trở thành ngày truyền thống lịch sử của Quảng Bình, trở thành phong trào thi đua vượt qua thử thách trong suốt chặng đường kháng chiến của nhân dân ta. Đình Kim Bảng được tiến hành xây dựng vào 1924 và hoàn thành vào năm 1925. Đình được làm bằng gỗ, mái lợp tranh, nền đất, đình gồm có đình Tiền và đình Hậu. Trong thời kỳ chống Pháp đình bị máy bay Pháp bắn cháy, sau đó đình được sửa lại làm trường học và nhà kho quốc phòng. Năm 1966, đình lại bị máy bay Mỹ ném bom Napan cháy toàn bộ. Hiện nay, đình được tỉnh cấp kinh phí khôi phục lại đình trên nền đất cũ của đình làng. Năm 2004, đình được phục hồi và tu bổ, tôn tạo, trở thành một điểm đến ý nghĩa cho du khách và nơi sinh hoạt văn hóa, giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng cho các thế hệ. Hang lèn Cây Quýt nằm cách đình Kim Bảng khoảng 500m; có chiều cao trung bình khoảng 3m; rộng 15,5m; chiều sâu của hang 22m; cửa hang rộng 10m. Hang lèn Cây Quýt được sử dụng trong những ngày diễn ra Đại hội II tháng 5 năm 1949. Cũng tại hang lèn Cây Quýt tháng 9 năm 1964 đã diễn ra Hội nghị quân chính của sư đoàn 325A an dưỡng để ổn định tổ chức chuẩn bị vào Nam chiến đấu. Năm 1968, huyện tổ chức mừng công bắn rơi chiếc máy bay thứ 3.000 của Mỹ trên miền Bắc; Hang lèn Cây Quýt cũng là nơi cất giấu 400 tấn lương thực trong những năm chiến tranh chống Mỹ. Đặc biệt, hang lèn Cây Quýt vừa là di tích khảo cổ được M.cô-la-ni một nhà khảo cổ học người Pháp thuộc trường Viễn đông Bác cổ Hà Nội trước đây khai quật và nghiên cứu. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Minh Hóa , huyện Minh Hóa , tỉnh Quảng Bình.
Quảng Trị 2819 lượt xem
Đình Lý Hòa thuộc xã Hải Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Đình nằm trên một vùng đất cao giữa làng, với địa thế đẹp, thoáng mát. Cách quốc lộ 1A theo đường bờ sông về phía Đông Bắc chừng 1 km, đình hướng về phía Nam, trước mặt là con sông Lý hiền hòa chảy xuôi ra biển. Đình Lý Hòa được xây dựng năm 1737, do dân làng cùng nhau góp công, góp của. Mới đầu đình chỉ có 4 trụ bằng lim, hàng năm khi tế lễ nhân dân mới dựng lên lợp tranh, khi tế lễ xong lại hạ xuống xếp lại. Vị thần được thờ trong đình làng “Cương khẩu Đại vương”, một vị thần giữ cửa biển Cương Gián được thờ ở đình làng Cương Gián (Nghi Xuân - Nghệ An) - Gia phả các dòng họ ở Lý Hòa đều ghi các vị thần tổ ở làng Cương Gián - xứ Nghệ vào. Năm 1804 - 1808 khi Hội đồng hương Lý vững mạnh, thì nhân dân quyên góp để làm, mái đình được lợp bằng ngói vảy, phần hậu chẩn chỉ để giữ thờ. Sau đó dựng thêm đình trung. Năm 1824 xây cất thêm phần ngoài, hai gian cũ để thờ đồ tử khí. Theo phần phả để lại thì trong cùng “tứ trụ” gồm 4 vị thần: Thiên Yana, Hạnh Tiểu Nương và hai nàng công chúa con Thiên Yana (dân gọi là tứ vị đại càn). Đình giữa thờ thành hoàng và thờ vọng các vị thần có miếu dinh trong làng. Ngoài cùng thờ thập nhị gia tiên (tiên tổ 12 họ) có sắc bằng của vua. Nói đến làng Lý Hoà, không ai lại không biết đến dòng họ Nguyễn Duy, một dòng họ trong nhiều đời kế tục đỗ đạt làm quan to, được kính trọng. Trong thời kỳ nhà Nguyễn, kể từ năm Minh Mạng thứ 10 mở đại khoa đầu tiên cho đến khoa thi cuối cùng 1919, dòng họ Nguyễn Duy ở làng Lý Hòa đã đóng góp 5 vị đại khoa (tiến sĩ). Đó là trường hợp có một không hai trong lịch sử khoa cử Việt Nam thời phong kiến. Đình Lý Hòa ngoài việc thờ tự các vị tổ khai cơ làng, khai cơ nghề nghiệp cho con cháu, thờ tự các danh khoa danh giá của làng, còn gắn liền với các sự kiện lịch sử tiêu biểu của địa phương, của tỉnh trong thời kỳ tiền khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện lỵ, trong thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta đặc biệt là trong cuộc chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Những ngày đầu chuẩn bị cho việc vận động quần chúng, tập hợp lực lượng trong mặt trận Việt Minh để cùng địa phương tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Đình Lý Hòa là nơi các chiến sĩ cách mạng đã cất dấu tài liệu và đi lại bắt liên lạc, nhóm họp để trao đổi các chủ trương lớn của cấp trên. Ngày 23/8/1945, cả làng đã hội tụ tại đình, đổ về huyện đường. Cùng các địa phương trong huyện làm nên cuộc khởi nghĩa cách mạng tháng Tám giành chính quyền ở huyện lỵ thắng lợi. Trong cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Đình Lý Hòa nói riêng, làng Lý Hòa nói chung là một trong những nơi đánh phá cực kỳ dã man của giặc Mỹ. Địch đánh từ trên trời xuống, từ biển vào.v.v... Các thế hệ, các lớp thanh niên của làng trước khi lên đường nhập ngũ đều tập trung tại đình để được nhắc nhở phát huy truyền thống cha ông, sống xứng đáng với tổ tiên đã tạo dựng ra nền văn hóa tinh thần, văn hóa vật chất và quyết tâm bảo vệ quê hương đất nước, trong những năm tháng chiến tranh quyết liệt, làng Lý Hòa vinh dự được các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Đồng Sĩ Nguyên, Lê Quang Hoà... khi vào chiến trường đều ghé thăm. Đình Lý Hòa cũng như làng Lý Hòa nói chung bị đánh đi đánh lại nhiều lần, đình bị bom Mỹ tàn phá, nhưng làng còn là đình còn. Nhân dân địa phương vẫn kiên trì bám trụ, một tấc không đi, một ly không rời, bám làng bám quê hương. Chắc tay chèo tay súng, hưởng ứng khẩu hiệu: “xe chưa qua nhà không tiếc, đường chưa thông không tiếc máu tiếc xương”. Những cột đình bị sập, bị gãy, cùng với nhà cửa, nhân dân tháo dỡ để phục vụ cho những chuyến xe qua, đảm bảo giao thông, đảm bảo mạch máu vì miền Nam ruột thịt. Những chiến sĩ bị thương, những đoàn an dưỡng đều dừng chân tại đình để sau đó ra Bắc, vào Nam. Từ ngày hòa bình lập lại đến nay, đình làng thành nơi hội họp, nơi sinh hoạt văn hóa, là trung tâm chính trị, xã hội của cộng đồng làng xã, nơi các thế hệ con cháu tìm hiểu thêm quá khứ rực rỡ của tổ tiên, nâng cao lòng tự hào và trách nhiệm của mỗi người đối với quê hương làng xóm. Đình Lý Hòa có giá trị lịch sử kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu, là nơi thờ tự các vị tổ có công khai sáng làng và các nghề đặc trưng của làng biển (việc tế lễ của đình ngoài hai kỳ Xuân - Thu, mỗi năm có đại trường câu, có việc của làng, ngày tết. Ngoài ra cứ 6 năm có một kỳ tế lễ thành hoàng rất long trọng). Đình Lý Hòa là hiện thân của bản sắc văn hóa làng quê Việt Nam cùng với biết bao giá trị văn hóa đáng được bảo tồn. Hơn nữa đình còn gắn liền với những sự kiện lịch sử tiêu biểu của địa phương, của tỉnh, đặc biệt từ năm 1945 đến nay. Đình còn là một công trình mang biểu tượng lịch sử văn hóa, là nơi sinh hoạt văn hóa của làng biển Lý Hoà. Nơi giáo dục phát huy truyền thống hiếu học, lòng yêu quê hương đất nước cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình
Quảng Trị 2972 lượt xem
Cây đa đền Thượng thuộc giống đa lông. Thời điểm được công nhận, cây được xếp vào cây di sản có chu vi toàn bộ thân cây lớn nhất Việt Nam, với chu vi 44m, cao hơn 36m, có tuổi đời trên 300 năm. Đến nay, cây đã phát triển thêm rất nhiều rễ phụ và hàng nghìn rễ con bao bọc xung quanh. Rất khó phân biệt đâu là thân chính, đâu là rễ phụ, bởi theo thời gian, các rễ phụ đã phát triển, gắn chặt vào nhau thành cụm rễ khổng lồ không khác gì thân chính. Cùng với chế độ chăm sóc cây di sản theo quy định của Nhà nước, cây đa cổ thụ ở đền Thượng luôn được người dân bảo vệ. Mỗi năm cây ra rất nhiều rễ nhưng không ai bẻ cành, ngắt rễ hoặc trèo leo. Cây có nhiều tầm gửi, nhiều gốc phong lan bám chặt trên những cành cao, rễ lớn càng tô thêm vẻ đẹp cổ kính và tự nhiên. Thời điểm được công nhận là “Cây di sản Việt Nam”, cây đa ở đền Thượng là cây cổ thụ đầu tiên của tỉnh được Hội Bảo vệ thiên nhiên và Môi trường Việt Nam công nhận là Cây di sản Việt Nam. Cây sừng sững, hiên ngang, vươn cao ngay bên bờ sông Nậm Thi, cạnh đền Thượng - nơi thờ Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Vương - Trần Quốc Tuấn, người có công to lớn trong sự nghiệp bảo vệ bờ cõi, non sông đất nước, trở thành niềm tự hào của người dân nơi mảnh đất biên cương - Lào Cai. Nguồn “Báo Lào Cai điện tử”
Lào Cai 3052 lượt xem
Theo khảo sát của Phòng Nghiên cứu - Sưu tầm (Bảo tàng tỉnh Lào Cai), động Tiên Cảnh có tổng chiều dài 158m, đường đi lại còn khá khó khăn do chưa được đầu tư, tôn tạo. Động có 3 khu vực hội tụ những nét riêng biệt, không lẫn nhau về hình nhũ và cảnh sắc mà tự nhiên kiến tạo, tạo thành điểm hấp dẫn du khách ưa loại hình du lịch mạo hiểm, khám phá. Cửa động Tiên Cảnh có dạng hố sụt tự nhiên được che chắn bởi một mái đá rộng, chắc chắn. Mái cửa động có nhiều hình thù mà tự nhiên tạo tác thành, như hình con bọ, răng khủng long, mũi kiếm nhọn dày đặc theo hình răng lược. Ở khu vực này, các khối nhũ đá kết lại nối tiếp nhau từ vòm xuống dưới như những mái tóc dài miên man, phía trái vách động nhũ rất sáng, rủ xuống như bức rèm, ở đó rễ cây đan dày xen lấn lớp nhũ mịn màng tựa bức tranh sơn mài sống động. Về tổng thể, mái cửa động giống như hàm của con rồng đang mở rộng, ngáp dài sau bao thế kỷ nằm ngủ yên giữa thiên nhiên hùng vỹ. Bước qua cửa động sẽ đến động Sơn Trang với vòng động màu nâu, nền động thoải cùng vân đá như những thửa ruộng bậc thang của vùng núi cao thu nhỏ, đây là khu vực tập trung nhiều nhũ đá nhất, tạo thành sơn lâm hùng vỹ. Ngồi trên tảng đá lớn nhất được tự nhiên sắp đặt giữa động, ngắm toàn cảnh nhũ đá giống như lâu đài tráng lệ của châu Âu; nhiều khối nhũ tựa như khối pha lê khổng lồ, phát ra ánh sáng huyền ảo mỗi khi có tia sáng chiếu vào. Đây là điểm dừng chân đầu tiên để ngắm nhìn những gì tráng lệ, kiều diễm nhất của động Sơn Trang. Đứng ở mỗi góc nhìn khác nhau, mỗi người đắm chìm vào những cảm xúc của riêng mình, nhưng có một điểm chung không thể phủ nhận đó chính là thấy được vẻ tuyệt mỹ của thắng cảnh này. Khu vực tiếp theo bị thu hẹp, lối đi nhỏ với nhiều nhũ đá mọc từ dưới đất lên, như dải san hô, khiến người ta có cảm giác đang ở dưới lòng đại dương bao la, nên được người địa phương đặt tên là Thủy Cung. Trên rặng san hô, nhũ đá được khéo léo tạo hình bức tượng mẹ bồng con trước ngực, ở phía dưới có 3 cột đá nối liền thông đến đỉnh động giống như trụ cổng trước khi vào thủy cung, cánh cổng tự nhiên mở ra cả một tòa thiên nhiên kỳ vỹ, đặc sắc. Đi hết Thủy Cung là đến đáy động với nền rộng, bằng phẳng, nơi đây hội tụ rất nhiều nhũ đá buông dài từ trần đến tận đáy động. Vách động được kiến tạo bởi lớp đá chắc chắn phủ lớp bột đất màu nâu đậm. Chính lớp đất phủ ấy khiến động không tạo ra tiếng vang dội đối với âm thanh. Tại khu vực này có các khối nhũ mọc lên từ nền động tạo thành chiếc bàn trà với 3 nhũ đá trồi xung quanh giống như con người đang thưởng thức trà chiều. Tất cả tạo nên một bức tranh lấp lánh, nhất là khi có ánh sáng chiếu vào... Với những giá trị về lịch sử, thẩm mỹ, kinh tế du lịch, khoa học và quốc phòng, an ninh, tháng 10/2019, danh thắng động Tiên Cảnh đã được UBND tỉnh Lào Cai xếp hạng là di tích danh lam, thắng cảnh cấp tỉnh. Rồi mai đây, khi được quan tâm đầu tư, động Tiên Cảnh có thể trở thành điểm du lịch hấp dẫn, mang đặc trưng của Xuân Thượng nói riêng và Bảo Yên nói chung. Qua đó phát huy hiệu quả những giá trị về thiên nhiên, văn hóa, con người, giúp người dân xã Xuân Thượng phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập. NGUỒN: Báo Lào Cai điện tử
Lào Cai 2616 lượt xem
Di tích lịch sử - văn hóa đền Làng Lúc tọa lạc tại bản Lúc, xã Bảo Hà (huyện Bảo Yên). Đền được xây dựng để tỏ lòng tôn kính của đồng bào các dân tộc nơi đây đối với 3 vị tướng của quan Hoàng Bảy. Các ông đã có công đánh đuổi giặc phương Bắc, khai ấp lập làng, dạy Nhân dân phát triển kinh tế, cung cấp quân lương cho tướng Nguyễn Hoàng Bảy đánh giặc vào cuối thời Lê (thế kỷ XVII). Sử sách còn ghi lại, bấy giờ, khắp vùng Quy Hóa thuộc châu Thủy Vĩ, châu Văn Bàn (khu vực Bảo Hà ngày nay) luôn bị giặc phương Bắc xâm chiếm, cướp phá, giết hại người dân vô tội. Nhận thấy tình hình ngày càng cấp bách, triều nhà Lê, niên hiệu Cảnh Hưng (1740 - 1786) cử viên tướng thứ Bảy họ Nguyễn lên trấn thủ Quy Hóa. Danh tướng họ Nguyễn đưa quân tiến đánh dọc sông Hồng, giải phóng Khảu Bàn và xây dựng căn cứ Bảo Hà vững chắc, chờ thời cơ đánh đuổi giặc xâm lược. Trong số quân lính của danh tướng họ Nguyễn, có 3 anh em họ Hoàng nhiều lần góp công đánh đuổi quân xâm lăng, đã xin lệnh tướng được đi tìm vùng đất mới để đưa dân tới khai hoang, lập bản, làm nơi luyện tập binh sĩ và tăng gia, sản xuất, cung cấp lương thực cho nghĩa quân. 3 anh em họ Hoàng chọn địa điểm tại bản Lúc rồi chiêu mộ đồng bào dân tộc Tày, Dao các vùng lân cận về đây lập bản. Sau một thời gian, các ông cùng dân bản khai phá được 4 cánh đồng lớn, đặt tên là Cốc Tràm, Tàng Luông, Nà Kê, Cốc Tún. 3 ông dạy dân cấy lúa nước, trồng ngô, sản xuất lương thực phục vụ đời sống hằng ngày và chi viện cho đoàn quân của tướng Nguyễn Hoàng Bảy thêm hùng mạnh. Những đóng góp to lớn của 3 anh em họ Hoàng đã nhận được sự tôn kính, niềm tin của đồng bào các dân tộc nơi đây. Sau khi mất, các ông được người dân tôn làm thành hoàng làng, lập miếu thờ ở chính giữa làng Lúc. Nhìn từ ngoài vào, ngôi đền trang nghiêm gồm 3 gian thờ lần lượt là: Cung thờ Ban công đồng; cung thờ tướng Hoàng Bảy; cung thờ Tam tòa Thánh Mẫu. Từng chi tiết trong ngôi đền đều được chạm khắc tinh tế, tạo vẻ uy linh. NGUỒN: Báo Lào Cai điện tử
Lào Cai 2769 lượt xem
Đình Tượng Sơn nằm ngay trung tâm xã Quảng Long, trên một thế đất tương đối cao, phía trước có dòng sông Mai (sông Kênh Kịa) chảy qua, sau dựa vào triền cát như ôm trọn lấy làng Tượng Sơn. Lịch sử xây dựng đình làng gắn với lịch sử xây dựng và phát triển cùng với những biến động về chính trị - xã hội diễn ra trên vùng đất Quảng Long, Quảng Trạch (thời phong kiến thuộc xã Đại Đan, tổng Thuận Bài). Đình được xây dựng vào năm Canh Ngọ (1750), đời vua Cảnh Hưng thứ XI đến nay đã hơn 250 năm. Đình Tượng Sơn lúc đầu xây dựng để thờ và ghi công các vị tổ đã có công khai khẩn lập ra làng Đại Đan và những vị được vua giao "Bảo quốc hộ dân", sau này thờ các vị thần trung quân ái quốc. Qua ký ức của nhiều thế hệ dân làng, đình Tượng Sơn là một trong những ngôi đình lớn trên đất Quảng Bình lúc bấy giờ. Đình được xây dựng và bài trí khá công phu. Đình gồm sân đình, tiền đình và hậu đình. Sân đình, tiền đình là nơi diễn ra lễ hội và nơi vui chơi giải trí, gặp mặt tế lễ, hội họp, rước sắc của làng. Hậu đình là nơi thờ Thành Hoàng và các vị thần có công với quê hương đất nước. Đình Tượng Sơn là sự kết hợp giữa chính quyền và thần quyền. Sau vụ đàn áp phong trào Cần Vương ở huyện Quảng Trạch thất bại (1888), thực dân Pháp điên cuồng tìm cách trả thù. Chúng đã lợi dụng hiềm khích giữa dân lương giáo, xúi giục bọn việt gian đội lốt tôn giáo đốt cháy đình làng. Dù rằng lúc này Đình chỉ còn lại dấu tích một thời, nhưng hình ảnh ngôi đình làng vẫn in đậm trong ký ức của mỗi người dân. Với tâm huyết đó, mùa xuân năm Nhâm Tý (1912) đình làng được khởi công xây dựng lại trên nền đình cũ theo kiến trúc của triều Nguyễn. Sau một năm chung lòng chung sức, góp công góp của của cộng đồng làng, đến mùa xuân năm Quý Sửu (1913) đình làng hoàn thành. Về cấu trúc, đình xây dựng lại lần 2 cơ bản vẫn như cũ nhưng đồ sộ và hoàn hảo hơn. Đặc biệt phần trang trí phối cảnh bên ngoài cũng như các chi tiết đường nét hoa văn, chạm trổ hình ảnh con voi trận được khắc ở bình phong đều thể hiện rõ tinh thần thượng võ của vùng đất Tượng Sơn. Riêng phần hậu đình ngoài việc thờ Thành Hoàng làng còn thờ vua Quang Trung và danh tướng Nguyễn Dụng ở chính diện hợp với ý nguyện lòng dân. Năm 1968, do tính chất của cuộc chiến tranh phá hoại ngày càng ác liệt của đế quốc Mỹ, ngôi đình lại bị bom đánh sập. Mãi cho đến năm 1993, Đảng bộ và nhân dân Quảng Long đã phục hồi lại phần hậu đình gồm 3 gian, được xây bằng đá, gạch, xi măng, mái lợp ngói như hiện trạng ngày nay. Tuy nhiên, việc làm đó cũng mới chỉ dừng lại việc phục hồi nơi thờ tự, chứ chưa tái hiện lại phần kiến trúc nghệ thuật của ngôi đình ngày xưa. Đình Tượng Sơn là một công trình lịch sử - văn hóa, là nơi hội tụ những sinh hoạt văn hóa truyền thống tốt đẹp của vùng đất Quảng Long là nơi trao truyền giá trị văn hóa giữa các thế hệ. Các phong tục, lễ hội của làng diễn ra ở Đình đều tập trung phản ánh các quan niệm thờ cúng và thể hiện tư tưởng người nông dân làng xã trong sự tôn vinh các vị thần. Trong những năm vận động thành lập chi bộ Đảng ở địa phương, Đình Tượng Sơn là nơi các chiến sĩ cộng sản đi lại, họp kín để trao đổi, tuyên truyền những chủ trương, đường lối của Đảng. Thời kỳ tiến tới tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng 8, đình làng cũng là nơi diễn ra các cuộc mít tinh của mặt trận Việt Minh kêu gọi quần chúng nổi dậy hưởng ứng sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đêm 19/8/1945, tại đình làng, Ban vận động và chỉ đạo khởi nghĩa xã được thành lập. Tại đây ngày 23/8/1945, tên lý trưởng đã giao nộp ấn tín và sổ sách cho Việt Minh. Hoà bình lập lại (1954), đình Tượng Sơn là trụ sở hành chính trong một thời gian khá dài của uỷ ban xã Quảng Long. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, để đảm bảo cho việc chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến miền Nam. Đình Tượng Sơn trở thành nơi tập kết, dừng chân của các đơn vị bộ đội, nơi trung tâm tiếp nhận hàng hóa, vũ khí. Ngoài ra đình cũng là nơi chứa đựng quân khí của đại đội 365, pháo 37, Bệnh viện Quảng Trạch cũng đóng ở đây. Khi phát hiện được những điểm cất dấu hàng nên đế quốc Mỹ đã tập trung đánh phá ác liệt vùng đất Quảng Long, lúc này đình đã bị đánh sập. Nhưng với tinh thần tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng, Đảng bộ và nhân dân Quảng Long đã dùng số gỗ còn lại để làm hầm phòng không, hầm cứu thương và phần lớn đưa ra làm cầu Kênh Kịa cho xe qua. Có thể nói trong những năm tháng đầy khó khăn, gian khổ, hy sinh chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đình Tượng Sơn đã góp một phần đẩy nhanh sự nghiệp thống nhất đất nước. Với những giá trị về mặt lịch sử trên năm 2003, đình Tượng Sơn được Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình.
Quảng Trị 2789 lượt xem
Công trình đình làng Già Hạ được phục dựng theo đúng nguyên mẫu đình làng xưa và dựa trên những mô tả của các cụ cao niên, nhân chứng hiện đang sinh sống trên địa bàn xã. Tổng diện tích khu di tích gần 300 m2, diện tích xây dựng đình làng gần 100 m2. Tổng mức đầu tư trên 500 triệu đồng, trong đó Nhà nước hỗ trợ 410 triệu đồng, Nhân dân đóng góp trên 100 triệu đồng gồm tiền mặt và ngày công lao động. Theo các tư liệu lịch sử, vào tháng 11 năm 1947, Tỉnh ủy và Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Lào Cai chủ trương cùng Nhân dân tản cư về Lục Yên tỉnh Yên Bái, ở xã Hùng Việt (là xã Việt Tiến, huyện Bảo Yên ngày nay). Tại đình làng Già Hạ, Tỉnh uỷ Lào Cai đã tổ chức hội nghị cán bộ Đảng toàn tỉnh bàn về hương hướng kháng chiến, xây dựng lực lượng trong khu căn cứ, củng cố chi bộ nông thôn và bàn về việc mở chiến dịch biên giới, chiến dịch Lê Hồng Phong tiến tới giải phóng Lào Cai. Không chỉ là căn cứ cách mạng, đình làng xưa còn là nơi hội họp, sinh hoạt văn hóa văn nghệ của Nhân dân trong vùng. Do vậy, việc phục dựng và đầu tư xây dựng lại đình làng Già Hạ là niềm mong mỏi của cấp ủy, chính quyền và Nhân dân địa phương. NGUỒN: ĐÀI PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH LÀO CAI
Lào Cai 2780 lượt xem
Từ lâu, trong đời sống tâm linh của đồng bào Tày, ngôi đền là chốn linh thiêng thờ phụng Vua Hùng, nơi thực hành tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Sự độc đáo của ngôi đền chính là sự giao thoa văn hóa, tín ngưỡng giữa miền xuôi và miền ngược, kết tinh những giá trị nhân văn cao đẹp. Đó là đền Pịt thuộc bản Tày Pịt, xã Lương Sơn (Bảo Yên - Lào Cai). Sau khi cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc ở Trung Hoa thất bại, nhiều tàn quân đã chạy dạt sang Việt Nam. Trong đó, nhóm tàn quân do Lưu Vĩnh Phúc đứng đầu đã kéo về Lục Yên và thành lập quân Cờ Đen. Để nuôi sống tàn quân, chúng ra lệnh cho các chức dịch địa phương phải nộp lương thực, thực phẩm, bắt thanh niên trai tráng xung vào đội quân của chúng. Đời sống nhân dân vô cùng khổ cực. Đến năm 1872, giặc Cờ Vàng do Hoàng Sùng Anh cầm đầu kéo từ Vân Nam sang Lào Cai. Một cuộc chiến khốc liệt giữa quân Cờ Đen và quân Cờ Vàng đã khiến nhân dân trong vùng rơi vào cảnh vô cùng bi thảm. Giặc cỏ vùng biên giới chưa yên thì năm 1885, thực dân Pháp đánh các tỉnh miền núi phía Bắc. Từ đó trở đi, dân tộc ta rơi vào cảnh lầm than, nước mất nhà tan, nhân dân vô tội chịu nhiều tầng áp bức bóc lột. Dưới nhiều tầng áp bức bóc lột kéo dài từ những năm cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, đời sống nhân dân các dân tộc ở Lương Sơn vô vùng tăm tối. Không có gì ngạc nhiên khi mọi người cần một điểm tựa về tâm linh. Sau nhiều lần nhờ các vị cao nhân kiếm tìm thì những người có uy tín trong cộng đồng người Tày ở Bản Pịt đã quyết định rước chân nhang thờ vua Hùng Vương ở Bạch Hạc, Phú Thọ về thờ tại đền. Từ khi rước chân nhang thờ các Vua Hùng về thờ, đời sống người dân thôn Pịt, xã Lương Sơn đã được nâng đỡ, động viên về mặt tinh thần. Việc thờ cúng Vua Hùng cùng với sơn thần, thổ địa của làng được duy trì suốt từ thời gian đó cho đến ngày nay. Đền Pịt tọa lạc trên mảnh đất rộng trên 4000m2, vị trí thoáng, phía trước là 2 bậc sân rộng khoảng 300m2, nền của di tích cao hơn mặt sân 50cm, cây cối và những thửa ruộng bậc thang bao quanh tạo nên khung cảnh hữu tình. Hiện nay đền Pịt là ngôi nhà gỗ 1 gian chính giữa và 2 chái được làm bằng gỗ, vật liệu còn rất tốt, yếu tố kỹ thuật đạt thẩm mỹ cơ bản. Đền hướng chính Đông. Trong đền có một bát hương cổ, toàn bộ nền đá, vết tích dựng đền vẫn còn. Nhiều năm trước đây, đến ngày hội của đền vào tháng Giêng, các chị em phụ nữ thường làm một mâm quả còn, én. Kết thúc phần nghi lễ cúng và thụ lộc, các cụ đến một mảnh ruộng để ném còn vòng, chơi én, đánh quay... Tất cả mọi người nam nữ, già trẻ đều nô nức, phấn khởi, tinh thần thăng hoa chuẩn bị một năm mới với nhiều hân hoan. Các quả còn, khi chơi xong sẽ được giữ tại gia đình nhà thầy cúng đến năm sau, khi làm cái mới, mới hóa cái cũ. Với những giá trị nhiều mặt, đền Pịt đã được UBND tỉnh Lào Cai xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh. Đền Pịt xã Lương Sơn là địa chỉ tâm linh, không gian sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của đồng bào các dân tộc nơi đây. Đặc biệt, ngôi đền gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương - di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Ngôi đền là minh chứng cho sự giao thoa văn hóa Tày - Việt. Đền Pịt là điểm nhấn tâm linh trong lộ trình phát triển du lịch tâm linh của địa phương. NGUỒN: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Lào Cai 2836 lượt xem
Đến Bảo Yên, du khách đi theo đường Cao tốc Nội Bài - Lào Cai; đường Sắt Hà Nội - Lào Cai, hoặc Quốc lộ 70, Quốc lộ 279, giao thông thuận tiện đưa du khách đến với Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia Đền Bảo Hà, thờ danh Tướng Hoàng Bảy, ngôi Đền linh thiêng nổi tiếng cả nước; Đền Cô Tân An, di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia, nằm bên kia Sông Hồng đối diện với Đền Bảo Hà thờ Cô Bé Thượng Ngàn (Nguyễn Hoàng Bà Xa) người có công cùng cha là “ Thần Vệ quốc Hoàng Bảy” đánh giặc, bảo vệ biên cương Tổ quốc. Cũng từ đây, du khách đến với xã Kim Sơn, một vùng quê yên bình, trù phú bên dòng Sông Hồng đỏ nặng phù sa, nơi đây có ngôi Đền Hai Cô tọa lạc trên đồi cao soi bóng xuống Dòng Sông, một phong cảnh “ Sơn thủy, hữu tình”. Sau một thời gian được các nhà nghiên cứu lịch sử khoa học tìm hiểu về lịch sử thời Nhà Trần, có hai cô gái theo quan quân Nhà Trần đánh giặc Nguyên - Mông vào thế kỷ XIII, đã anh dũng hy sinh tại mảnh đất Bãi Liềm, nay là thôn Quang Kim, xã Kim Sơn, Bảo Yên. Ngày 28/12/2018, UBND tỉnh Lào Cai đã ban hành Quyết định số 4349/QĐ-UBND về việc xếp hạng Di tích Đền Hai Cô là di tích lịch sử Văn hóa cấp tỉnh. Sự tích Đền Hai Cô được các nhà Sử học ghi lại: Theo lời kể của những người cao niên ở thôn Kim Quang và các hiện vật còn sót lại của ngôi đền cho thấy; Đền Hai Cô đã có lịch sử cách đây hơn trăm năm tuổi với nhiều lớp trầm tích dân gian được lưu truyền về nhân vật được thờ trong đền. Sự tích về nhân vật được thờ và lịch sử ngôi Đền chỉ được lưu truyền từ đời này sang đời khác, qua những câu chuyện kể được truyền miệng trong dân gian và cho đến nay chỉ một vài người già còn nhớ được. Bà Lê Thị Nhàng - thủ nhang đền Hai Cô cho biết: Vào những năm 1965 trong làng Bãi Liềm còn 4 hộ người Dao Họ sinh sống, bà được nghe những người Dao lớn tuổi kể lại về nhân vật được thờ trong ngôi đền là Hai Cô đã có công với vùng đất này trong kháng chiến chống quân Nguyên – Mông vào thời Nhà Trần. Truyền thuyết kể lại: Trong một trận chiến đấu với quân Nguyên - Mông (thế kỷ XIII) có hai cô gái đi theo quân nhà Trần canh gác trên một cái chòi cao tại Bãi Liềm làm nhiệm vụ đốt lửa báo hiệu khi quân địch tới. Trong trận chiến này, thế giặc rất mạnh tiến công như vũ bão, chòi canh của Hai Cô gái bị quân giặc bao vây 4 phía. Biết không thể thoát khỏi vòng vây và quyết không để rơi vào tay quân giặc Hai Cô đã tự châm lửa đốt chòi canh tự sát. Sau khi hai Cô thác đã hiển linh ở khu vực Bãi Liềm. Linh hồn Hai Cô đã nhiều lần hiển linh phù trợ cho quân lính nhà Trần thời bấy giờ đánh thắng trong nhiều trận chiến chống quân Nguyên – Mông xâm lược. Chính vì vậy, uy danh và sự linh thiêng của Hai Cô đã nổi tiếng khắp xa gần. Để tưởng nhớ sự hy sinh của Hai Cô, nhân dân nơi đây đã lập Đền thờ phụng và thường gọi là “Đền Hai Cô”, ngôi Đền thờ Hai Cô gái đã anh dũng hy sinh trong trận chiến đấu chống quân Nguyên - Mông bảo vệ bờ cõi vùng đất của người dân Kim Sơn nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Ngày nay, người dân nơi đây thường tâm niệm: Hai Cô thường xuyên hiển linh phù hộ, độ trì cho thuyền bè qua lại trên sông Hồng được xuôi chèo mát mái. Mùng 1, ngày Rằm, đầu xuân người dân lại đến dâng hương, hoa Đền Cô, cầu cho “ tai qua, nạn khỏi, mọi người mạnh khỏe, gia đình ấm êm, mùa màng tươi tốt…” Đền Hai Cô thuộc thôn Kim Quang, xã Kim Sơn, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai. Nơi đây người dân vẫn gọi là bãi Liềm, một mỏm đất nhô ra sông Hồng được bao bọc bởi những cây to quanh năm xanh tươi, rợp bóng. Đền Hai Cô tọa lạc trên đồi cao, không tiếp giáp với nhà dân, hai phía tả ngạn tiếp giáp với Sông Hồng, phía sau Đền tiếp giáp với đường tỉnh lộ 161. Để đáp ứng nhu cầu tâm linh và truyền thống“uống nước, nhớ nguồn’ của nhân dân địa phương và du khách thập phương; hiện nay, UBND huyện Bảo Yên đang quy hoạch mở rộng quỹ đất, tôn tạo khuôn viên ngôi Đền, để nhân dân và Chính quyền địa phương thuận tiện trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh Đền Hai Cô./. CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN BẢO YÊN TỈNH LÀO CAI
Lào Cai 2781 lượt xem
Đình làng Quảng Phong-trước đây gọi là đình Lũ Phong, được xây dựng vào năm 1542, để thờ 5 vị thánh Thành hoàng có công khai khẩn, lập làng qua các thời kỳ. Năm 1962, đình được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, đình là mục tiêu đánh phá ác liệt của kẻ thù. Tới nay đình đã được tôn tạo lại và dần dần phục hồi các giá trị truyền thống lịch sử tốt đẹp của địa phương. Đình làng Lũ Phong là nơi tưởng nhớ công ơn Thành Hoàng Làng (những vị quan, tướng đầu tiên về khai khẩn sinh sống tại đây), đặc biệt hơn đình làng cũng ghi dấu ấn lịch sử Chi bộ đầu tiên được thành lập của Huyện Quảng Trạch và phía Bắc Quảng Bình (10/1993). Để tưởng nhớ công lao của ông, cha và cầu cho làm ăn thuận lợi, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, bình an, hàng năm người dân tổ chức cúng tế. Việc chuẩn bị cho lễ hội đình làng Lũ Phong được thực hiện rất công phu. Chiều ngày 17 tháng Giêng, người dân của 10 tổ dân phố của phường Quảng Phong đều bận rộn, chuẩn bị các mâm cỗ để cúng lễ cho sáng ngày hôm sau. Trong mâm cỗ cúng ngày lễ được chia làm hai loại: loại mâm cỗ thứ nhất gồm có hoa quả, vàng mã, hương, rượu,…;loại mâm cỗ thứ hai gồm xôi thịt. Lễ hội đình làng Lũ Phong được tổ chức từ 9 giờ sáng ngày 18 tháng Giêng khi các mâm cỗ của 10 tổ dân phố trong phường đã được trưng bày đầy đủ tại đình Lũ Phong. Các nghi lễ cúng do các bậc cụ lão lớn tuổi trong phường thực hiện. Quá trình hình thành, phát triển của đình làng Lũ Phong,các truyền thống ông cha sẽ được đọc lại trong buổi lễ, nhằm giáo dục cho các thế hệ sau nhớ về cội nguồn. Đồng thời lễ hội Lũ Phong cũng nêu lên những thành tích mà phường Quảng Phong đã đạt được trong năm trước, cầu mong cho năm mới mọi điều thuận lợi, hướng thiện, cầu bình an, mọi người dân sẽ có cuộc sống tốt đẹp hơn. Nguồn Cổng thông tin điện tử thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình.
Quảng Trị 3091 lượt xem
Làng Phù Trịch (Quảng Lộc, TX. Ba Đồn) vốn nổi danh bởi chiến thắng Phù Trịch - La Hà những năm chống Pháp ác liệt. Mảnh đất này vẫn còn lưu dấu bao giá trị lịch sử, văn hóa vững bền theo thời gian. Đình làng Phù Trịch là nơi hội họp, diễn ra các hoạt động văn hóa-văn nghệ, lưu giữ nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp và còn là hiện thân của tình đoàn kết cộng đồng. Một trong những giá trị làm nên niềm tự hào vững bền của người dân Quảng Lộc nói chung và làng Phù Trịch nói riêng là mái đình Phù Trịch cổ kính, mang đậm dấu ấn thời gian. Đình Phù Trịch được xây dựng vào năm 1843, là một công trình kiến trúc ẩn chứa nhiều giá trị lịch sử, văn hóa của địa phương. Điều đáng quý là bên trong đình Phù Trịch hiện đang lưu giữ 12 sắc phong thời nhà Nguyễn từ vua Tự Đức đến vua Duy Tân, điều đó thể hiện được sự trân trọng quá khứ, cũng như công lao của các bậc tiên hiền. Mặt đình hướng ra sông Gianh, lưng tựa vào làng tạo thế đứng vững chắc giữa không gian thoáng đãng. Đình được thiết kế hai phần: đình tiền và đình hậu. Đình tiền được xây dựng khá rộng, có thiết kế đẹp, công phu. Các đường nét hoa văn được chạm khắc trau chuốt, tỉ mỉ. Ở hai đầu hồi phía đông và tây đắp hình hai con chim phượng có tư thế đang bay, với cách đắp ốp những đường nét cong lượn tinh tế, sắc sảo, uyển chuyển, hài hòa, tuyệt mỹ, mang cốt cách đăng đối cung đình. Đình hậu có kiểu kiến trúc và cách bố trí mang những nét tương đồng như những đình khác ở các địa phương khu vực miền Trung, từ các chi tiết hoa văn phối cảnh bên ngoài cho đến phần nội thất bên trong. Đình hậu được xây dựng theo hình chữ nhật, mái lợp bằng ngói Hưng Ký. Đình hậu là nơi thờ phụng vị thành hoàng danh tướng Phạm Bá Quý và các vị thần, vị tướng có công danh, đức độ, các vị khoa bảng danh thơm, tiếng tốt, phò dân, giúp nước được nhân dân mến mộ. Cách đình khoảng 20m về phía tay trái, dân làng còn lập riêng một lăng miếu được xây cất khá công phu thờ Thành hoàng Phạm Bá Quý, người có công lớn trong việc khai khẩn ruộng đất lập nên làng Phù Trịch, vừa là một vị tướng có tài. Phía trên hương án treo 2 chữ Hán “Anh Linh” do vua ban tặng, thể hiện là nơi trang nghiêm và kính cẩn để thờ ngài. Năm 1817, ông được vua Thành Thái sắc phong “Bản thổ Thành hoàng chi thần”, sau đó sắc phong là “Thượng đẳng Tôn thần”. Bởi thế, khi xây dựng miếu thờ, dân làng đã khắc hai câu đối bằng chữ Hán: “Sinh vi tướng Binh Lồi cứu quốc/Tử phong thần bản thổ thành hoàng”. Phía trên 4 nóc miếu vẫn còn giữ được những nét chạm trổ rồng, phượng tinh xảo và nguyên bản, thể hiện uy quyền của một danh tướng. Về phía đông cách đình khoảng 1.200m nhân dân địa phương còn lập nên một khu miếu gọi là “Tam tòa tứ miếu”, gồm có 4 ngôi miếu. Mỗi ngôi miếu được thiết kế theo ba tòa kiến trúc giống nhau, các đường nét đắp ốp, uốn lượn, chấm họa đều theo một thể thống nhất. Bốn ngôi miếu dùng để thờ các vị: Nam Hán Lang Lai, Tả phụ thiền tướng công Nguyễn Hữu Hiền, thân phụ các tả phụ thiền quận công, tứ vị thần nông, những vị có công trong việc trấn ải biên thùy, khai cơ điền thổ, xây dựng bảo vệ quê hương và được sắc phong qua các triều vua. Di tích lịch sử đình Phù Trịch ngoài việc thờ tự vong linh những vị tổ khai cơ lập nghiệp nên làng, những vị có công đức được nhân dân tôn kính, đình còn gắn liền với những sự kiện lịch sử quan trọng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Tiêu biểu như chiến thắng Phù Trịch La Hà vào mùa xuân tháng 2-1950 đã đi vào lịch sử của địa phương và dân tộc như một mốc son chói lọi, xác và máu quân thù nhuốm đỏ cả dòng sông. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phù Trịch là địa bàn trọng điểm; bến đò ngang Phù Trịch là huyết mạch giao thông quan trọng, là nơi đưa đón bộ đội, thanh niên xung phong, nhân dân qua lại và vận chuyển hàng hóa vào chiến trường. Đình Phù Trịch là nơi tập kết quân, cất dấu hàng hóa quan trọng như vũ khí quân trang, quân dụng, gạo muối, thuốc men. Đình Phù Trịch, vùng đất Phù Trịch trở thành điểm nóng mà địch tập trung đánh phá suốt đêm với hàng ngàn loại bom đạn khác nhau hòng ngăn chặn cắt đứt mạch máu giao thông đường bộ, đường thuỷ. Đến năm 1967, 1968 với cuộc chiến tranh mang tính huỷ diệt, đế quốc Mỹ đánh bom vào nhà thương, trường học, đình, chùa, lăng, miếu… phần đình tiền cũng bị đánh sập từ đây. Qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đình Phù Trịch nói riêng, làng Phù Trịch nói chung đã có những đóng góp đáng kể cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đã gần hai trăm năm qua mà các đường nét hoa văn chạm trổ trong tổng thể kiến trúc của ngôi đình vẫn nguyên vẹn trên một vùng đất có nhiều chiến tích, là nơi thờ tự, tín ngưỡng và địa điểm sinh hoạt văn hoá tâm linh của các thế hệ người làng Phù Trịch. Cứ vào mỗi dịp tết đến xuân về, nhất là đêm giao thừa Tết Nguyên đán, con cháu trong làng đều tập trung về đình để cùng nhau đón giao thừa, dâng hương và đánh chiêng, gõ trống khai xuân, ngày 6 tháng giêng hàng năm, tất cả các họ tựu trung tại đình làng để tổ chức lễ khai canh đầu xuân của làng. Đây là dịp để các tộc họ, con cháu gần xa trở về tham dự lễ, cùng ôn lại những giá trị truyền thống tốt đẹp của vùng đất này. Và đình làng mãi là nơi chốn đi về đầy tự hào của bao thế hệ người dân nơi đây. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Quảng Lộc, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình.
Quảng Trị 2770 lượt xem
Đình Hòa Ninh thuộc làng Hòa Ninh xưa nay là xã Quảng Hòa, thị xã Ba Đồn được xây dựng từ năm Bảo Đại thứ 11 – 1936. Thời phong kiến, đình vừa là “trạm giao liên của các binh đoàn phục vụ cho việc hành quân”, vừa là nơi thờ cúng các vị anh hùng, các vị có công khai khẩn đất hoang lập nên làng mạc… Cùng với các giá trị về văn hóa, Đình làng Hòa Ninh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược cũng là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử. Ngôi đình là nơi hội họp của nhân dân, nơi diễn ra các cuộc mít tinh của mặt trận Việt Minh kêu gọi quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở làng xã, huyện lỵ (8-1945). Trong những năm chống Mỹ cứu nước, đây cũng là nơi lực lượng vũ trang ta tập kết và là kho cất dấu vũ khí sẵn sàng đánh trả lại máy bay địch khi chúng đánh phá miền Bắc. Năm 1965, bom đạn giặc Mỹ khiến đình Hòa Ninh bị hư hỏng nặng. Nhưng, với sự quyết tâm của bà con, cùng sự chỉ đạo sâu sát của chính quyền các cấp, năm 1976, Đình đã được tu sửa thành công và trở thành một “địa chỉ vàng” cho thế hệ đi sau nêu cao niềm tự hào, trách nhiệm đối với truyền thống vẻ vang của cha ông. Năm 1993, Bộ Văn hóa-Thông tin (cũ) đã xếp hạng đình Hòa Ninh là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Đình Hòa Ninh được xây dựng với quy mô và kiến trúc đồ sộ, tỷ mỷ. Đình được bố trí với hệ thống tường thành bao quanh, cổng trụ, bình phong và tòa đại đình nằm ngang. Sự sắc sảo, tinh tế thể hiện ngay ở cổng của đình, với cổng chính được xây dựng bằng gạch. Hai trụ biểu hai bên được thiết kế vô cùng công phu, các đường nét hài hòa với từng họa tiết và màu sắc. Trên hai đỉnh trụ biểu là hình ảnh hai con nghê được ốp tinh xảo bằng men xanh, nâu nhạt thể hiện sức mạnh đoàn kết của người dân. Cổng đình mang đậm nét kiến trúc nghệ thuật của làng quê Việt Nam. Đình Hòa Ninh xã Quảng Hoà gồm có 5 gian, 4 vài, 1 cửa chính và 4 cửa phụ. Trước cửa chính đình có khắc chữ “Thọ” được lồng trong mặt trăng và 3 chữ Hán đắp nổi là Phúc, Du, Đồng. Đây cũng là trung tâm thể hiện các họa tiết trang trí như: Long, Lân, Quy, Phụng, bát bửu, hoa lá… bằng nghệ thuật đắp vữa và ghép các mảnh sành, sứ. Ngoài ra, khu vực này còn có thêm 2 câu đối của cử nhân Nguyễn Tiến Ích. Đình Hòa Ninh có phần mái độc đáo, được xây theo kiểu tứ giác, hai mái thượng phía trước và sau, hai mái hạ ở hai đầu Đông, Tây. Ở giữa nóc đình là hình tượng lưỡng long chầu nguyệt linh thiêng. Hằng năm, vào mỗi dịp Tết, tại đình Hòa Ninh Quảng Bình có tổ chức lễ hội Kỳ Phúc, đây là lễ hội nhằm với mục đích cầu phúc cho nhân dân, cầu cho quốc thái dân an, mùa màng bội thu, thuận buồm xuôi gió... Ngoài ý nghĩa cầu phúc, đây cũng là dịp mà người dân làng Quảng Hòa, mà lớn hơn nữa là người dân Quảng Bình nhớ về tổ tiên, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Quảng Hòa , thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình.
Quảng Trị 2681 lượt xem
Di tích lịch sử văn hóa đền Long Khánh, xã Phúc Khánh, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai tổ chức Lễ hội đền Long Khánh có hai phần, trong phần lễ, các đại biểu, người dân và du khách đã tham gia phần rước kiệu và dâng hương theo phong tục, văn hóa người dân tộc Nùng (dân tộc chiếm đa số tại đây), cầu mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt, bội thu, gia đình ấm no, hạnh phúc. Ở phần hội, người dân địa phương và du khách được trải nghiệm các trò chơi dân gian như kéo co, bịt mắt bắt vịt, thi nấu cơm, làm bánh, múa hát văn nghệ... những tiết mục, trò chơi mang đậm bản sắc của người dân nơi đây. Theo sử sách ghi lại, cuối thế kỷ 19, châu Lục Yên bị loạn binh cờ đen từ phía bắc nổi lên xâm chiếm, vơ vét của cải, giết hại dân lành, đốt phá nhà cửa. Không chịu khuất phục trước cảnh lầm than, quan Tri châu Lục Yên bấy giờ là Tăng Hán Bảo, ông là thầy Tạo, người dân tộc Nùng rất có uy tín đã tập hợp đông đảo người dân trong vùng cùng dòng tộc đứng dậy khởi nghĩa. Nhằm tưởng nhớ công lao của vị anh hùng Tăng Hán Bảo hy sinh quả cảm, anh dũng, Chánh tổng địa phương đã tấu trình lên vua Khải Định (Triều nhà Nguyễn) xin ân chuẩn cho thờ phụng trong toàn vùng vào ngày mùng 2 tháng Giêng hàng năm. Lễ hội chính của đền Long Khánh vào ngày 10 tháng Bảy (âm lịch) hàng năm đã thu hút nhiều người dân địa phương và du khách mọi nơi về chiêm bái cầu phúc, cầu lộc, cầu tài. Năm 2018, Di tích lịch sử văn hóa đ NGUỒN: TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ KINH TẾ MÔI TRƯỜNG
Lào Cai 2713 lượt xem
Theo sử sách ghi lại: Nghĩa Đô xưa là một thung lũng rộng lớn, đất rừng trù phú, được bao quanh bởi suối, tạo nên phong cảnh trùng điệp yên bình. Cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, nơi đây có tên gọi là “Mường Khuông”, sau đổi tên là “Mường Nghĩa Đô” gắn với sự kiện hình thành đền Nghĩa Đô vào ngày 14 tháng 7 năm Canh Tuất, năm Tự Đức thứ ba (1850). Tên Nghĩa Đô gắn với vùng đất này từ đó. Tại đây, anh em Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mật (các chúa Bầu) cùng một số tướng công họ Vũ và tướng lĩnh trong vùng đã cho xây dựng tuyến phòng thủ bảo vệ thành Nghị Lang từ xa; tổ chức khai khẩn phục vụ sản xuất quân lương tại chỗ, mở mang, phát triển vùng đất này. Đặc biệt, các chúa Bầu cho phép quân binh người miền xuôi hòa nhập với người bản địa làm thế đồn trú lâu bền trên miền biên ải. Đền Nghĩa Đô được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh từ năm 2016. Năm 2018, đền được tôn tạo, trùng tu; đến năm 2019 khánh thành và đưa vào sử dụng, đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân trong vùng và du khách thập phương. Lễ hội đền Nghĩa Đô được tổ chức thường niên vào ngày 14/7 (âm lịch) nhằm tưởng nhớ công lao to lớn của các chúa Bầu cách đây hàng trăm năm đã bảo vệ cuộc sống bình yên cho người dân, mở mang phát triển vùng đất này. Báo Lào Cai điện tử
Lào Cai 2737 lượt xem
(ĐCSVN) – Di tích Lịch sử Quốc gia đồn Phố Ràng ở thị trấn Phố Ràng, huyện Bảo Yên (Lào Cai) là chứng tích đặc biệt, nơi khắc ghi chiến thắng lịch sử hào hùng, oanh liệt của thế hệ cha ông 73 năm về trước (26/6/1949 – 26/6/2022). Theo Lịch sử đảng bộ huyện Bảo Yên (Lào Cai), đồn Phố Ràng được xây dựng trên cao điểm 442, diện tích rộng gần 1 ha; đây là một vị trí chiến lược, có thể khống chế toàn bộ khu vực lòng chảo thị trấn Phố Ràng và các khu vực lân cận. Thế đồn gần như 3 mặt là sông, ở vị trí đồn có thể bao quát, theo dõi toàn bộ các hoạt động ở sông và hai bên bờ. Pháp cho xây dựng một hệ thống công sự vững chắc với nhiều lô cốt, giao thông hào, hàng rào tre vót nhọn ken dày đặc quanh cứ điểm, mìn, vật cản và ụ súng được bố trí xung quanh đồn. Địch còn bố trí 2 trung đội Âu - Phi, 1 đội lính khố đỏ, 1 trung đội lính dù, 1 trung đội lính dõng, các loại vũ khí sẵn sàng đánh trả và cản bước tiến của các nhánh quân ta lên giải phóng vùng Tây Bắc. Ngày 19/5/1949, chiến dịch sông Thao mở màn, quân ta đã diệt 2 vị trí là Đại Bục và Đại Phác (huyện Trấn Yên, Yên Bái) thuộc phân khu Nghĩa Lộ, làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng ngự của địch ở hữu ngạn sông Hồng thuộc tỉnh Yên Bái. Thừa thắng ta đánh tiểu khu Phố Ràng là cứ điểm xung yếu, căn cứ đầu não của địch và cũng là sở chỉ huy của tiểu khu. 18 giờ ngày 24/6/1949, pháo binh của ta bắt đầu bắn vào đồn địch, áp chế các ụ súng. Sau hơn 40 giờ chiến đấu liên tục với khí thế mãnh liệt, kiên cường, dũng cảm, đúng 08 giờ ngày 26/6/1949, quân ta đã làm chủ trận địa, hạ được đồn, bắt sống được tên quan Ba chỉ huy đồn, tiêu diệt hơn một đại đội địch. Đồn Phố Ràng bị hạ, một bộ phận quân địch rút chạy theo 2 hướng về Nghĩa Đô và Lào Cai. Sở chỉ huy Phố Ràng bị tiêu diệt đã làm rung chuyển tuyến phòng thủ của địch từ Phố Lu đến Nghĩa Đô, làm cho địch tổn thất, hoang mang và lo sợ. Chiến thắng đồn Phố Ràng đã phá vỡ một mắt xích quan trọng trong tuyến phòng thủ Bảo Hà - Phố Ràng - Nghĩa Đô - Yên Bình, thúc đẩy sự tan rã của địch, tạo tiền đề cho bộ đội chủ lực tiến vào giải phóng Phố Lu và tiến đánh đồn Nghĩa Đô, góp phần quan trọng đưa chiến dịch Sông Thao đến toàn thắng, đập tan tuyến phòng thủ trọng yếu của địch, giải phóng trên 600 km2 và hàng chục vạn nhân dân các dân tộc Tây Bắc thoát khỏi ách kìm kẹp của địch. Trận đồn Phố Ràng là chiến thắng hào hùng, oanh liệt đã được ghi vào trang sử vẻ vang của đất nước ta. Ngày 11/06/1999 di tích đồn Phố Ràng được Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể Thao – Du lịch) công nhận là Di tích Lịch sử cấp Quốc gia, theo Quyết định số 38/QĐ-BVHTT. NGUỒN: Cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Lào Cai 2655 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 13224 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 12030 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 9930 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 9910 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 9466 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 9016 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 8914 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 8788 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 8594 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Gia Lai 8577 lượt xem