Di tích lịch sử

Việt nam

Cụm di tích khởi nghĩa Thái Nguyên

Cách đây 105 năm, khởi nghĩa Thái Nguyên do Đội Cấn và Lương Ngọc Quyến lãnh đạo đã làm rung chuyển chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương. Đây được xem là cuộc khởi nghĩa vũ trang hào hùng vào bậc nhất trong lịch sử dân tộc ta đầu thế kỷ XX. Ngược dòng lịch sử, trong những năm đầu thế kỷ XX, Nhân dân trong tỉnh Thái Nguyên cũng như cả nước chịu muôn vàn thống khổ bởi sự áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và tay sai. Trong tình cảnh đó, những người con của quê hương Thái Nguyên có tinh thần yêu nước đã dựng cờ khởi nghĩa, đứng đầu là Trịnh Văn Cấn và Lương Ngọc Quyến. Cuộc khởi nghĩa nổ ra vào tối 30/8/1917, các ông Đội Trường, Ba Chén và một số binh lính giác ngộ đã tới diệt tên giám binh Nô-en (Noel) và những tên tay sai đắc lực của giặc. Ông Đội Giá và đồng đội tới giết hai vợ chồng tên Lô-ét (Loet) - một tên giám ngục rất độc ác, mở cửa nhà lao phá xiềng xích, giải thoát cho trên 200 tù chính trị và tù thường phạm. Ông Lương Ngọc Quyến bị liệt nửa người, được anh em cõng ra ngoài. Tiếp đó ông Đội Giá cho mở kho quân lương, lấy quần áo, đạn dược trang bị cho nghĩa quân rồi chiếm tiếp dinh Công sứ, tòa án, nhà đoan, kho rượu, kho đạn... Với tinh thần chiến đấu ngoan cường, nghĩa quân đã làm chủ tỉnh lị trong vòng 1 tuần. Ngày 5/9/1917, mặt trận của nghĩa quân tại thị xã Thái Nguyên bị phá vỡ, buộc phải rút lui khỏi Thái Nguyên. Ông Lương Ngọc Quyến bị thương nặng và hy sinh anh dũng. Tuy thất bại sau đó nhưng khởi nghĩa đã để lại một dấu mốc đặc biệt. Lần đầu tiên trong lịch sử cận đại Việt Nam, một cuộc khởi nghĩa diễn ra, giành được chính quyền tại một tỉnh, có tuyên ngôn, tuyên bố nền độc lập, có quốc kỳ, quốc hiệu, thành lập quân đội riêng. Cụm di tích khởi nghĩa Thái Nguyên đã được xếp hạng Quốc gia năm 1997, gồm các di tích: Trại lính khố xanh, dinh công sứ Pháp, nhà lao Thái Nguyên, đền thờ Đội Cấn. NGUỒN: Sở ngoại vụ Tỉnh Thái Nguyên

Thái Nguyên 3055 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Khu du lịch sinh thái, bảo tồn văn hóa truyền thống dân tộc Tày ở Thái Nguyên

Nằm cách trung tâm thành phố Thái Nguyên hơn 10km, khu du lịch sinh thái Thái Hải thuộc xóm Mỹ Hào, xã Thịnh Đức, thành phố Thái Nguyên là một khu du lịch trải nghiệm phong tục tập quán dân tộc Tày, từ nhiều năm nay. Khu du lịch sinh thái, bảo tồn văn hóa dân tộc Tày Thái Hải hiện nay có khoảng 30 ngôi nhà sàn được dựng theo nguyên bản từ nhà sàn của người Tày Định Hóa Thái Nguyên nơi bạn có thể được thưởng thức văn hóa người Tày vô cùng đặc sắc Nơi đây, dưới những nếp nhà sàn quần tụ trong không gian xanh mướt của những tán cọ, rừng keo, rừng vầu trong núi đồi bảo tồn các hiện vật và văn hóa dân gian truyền thống của đồng bào Tày, Nùng Việt Bắc.Làng nhà sàn Thái Hải được chia làm nhiều khu với những chức năng riêng, gồm có khu bảo tồn, khu ẩm thực, khu vui chơi giải trí, tổ chức sự kiện…là điểm đến hấp dẫn thu hút du khách trong và ngoài nước.

Thái Nguyên 3032 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Bảo tàng Văn hoá các Dân tộc Việt Nam

Bảo tàng Văn hoá các Dân tộc Việt Nam Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam có địa chỉ tại số 1 Đội Cấn, Trưng Vương, thành phố Thái Nguyên (tỉnh Thái Nguyên), được thành lập vào năm 1960 với tên gọi ban đầu là Bảo tàng Việt Bắc, đến năm 1990 đổi tên thành Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam. Với diện tích gần 40.000m2, đây là công trình hội tụ, lưu giữ, trưng bày và giới thiệu những tư liệu quan trọng về lịch sử, bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam đạt giải thưởng Hồ Chí Minh về công trình kiến trúc đợt I, năm 2006. Trong đó, các dân tộc anh em tại các khu vực như vùng đồng bằng, trung du Bắc Bộ, Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng Nam Bộ… được tái hiện qua gần 50.000 hiện vật trong không gian bảo tàng. Trong đó, bản sắc văn hóa về phong tục, tập quán lao động, sản xuất, các nghi lễ, lễ hội, trang phục, ẩm thực, kiến trúc, nghề thủ công… được tái hiện sinh động qua hệ thống tư liệu, di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. NGUỒN: Cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

Thái Nguyên 2929 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di tích rừng Khuân Mánh

Di tích rừng Khuân Mánh Rừng Khuân Mánh là khu rừng thuộc xã Tràng Xá, huyện Võ Nhai, cách thành phố Thái Nguyên 50 km về phía Đông Bắc. Đây là nơi ra đời của Trung ương đảng về bảo toàn và tiếp tục củng cố lực lượng, ngày 15/9/1941, thay mặt thường vụ trung ương Đảng, ông Hoàng Quốc Việt đã đến căn cứ chứng kiến lễ thành lập và trao nhiệm vụ cho đội cứu quốc quân II, ông Chu Văn Tấn là chỉ huy trưởng, ông Nguyễn Văn Phấn làm chỉ huy phó. Lúc đầu trung đội có 36 người, trong đó có 3 nữ, sau tăng lên 46 người, trang bị vũ khí thô sơ, chỉ có súng kíp và giáo mác. Sau lễ thành lập, trung đội bắt tay vào xây dựng cơ sở chính trị trong nhân dân, đẩy mạnh hoạt động du kích ở Tràng Xá, Đình Cả, gây nhiều tổn thất cho địch. Tháng 11/1944, nhiều trận chiến đấu ác liệt giữa đội cứu quốc quân II, (có sự tham dự của nhân dân địa phương) với quân đội Pháp tại cầu Đồng Thu, đèo Khê, gốc đa La Hán, núi Đá Đỏ, hang Mỏ gà... các địa danh này lưu dấu chiến công oanh liệt của quân dân Võ Nhai thời đó. NGUỒN: Du Lịch Thế Giới

Thái Nguyên 2679 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Đông Cao

Chùa Đông Cao hay chùa Đôi Cao, được xây dựng từ thời nhà Lý, tọa lạc trên quả đồi thuộc thôn Phúc Duyên, xã Tân Hương. Trải qua cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ngôi chùa bị tàn phá. Đến năm 1999, xã Tân Hương đã tổ chức trùng tu lại chùa và xây dựng gác chuông. Năm 2002, bà con trong xã và các nhà hảo tâm đã vận động quyên góp hơn 120 triệu đồng để tu bổ chùa. Hiện, chùa đã được đầu tư xây dựng khang trang, sạch đẹp, có nhà Tam Bảo, nhà thờ Mẫu, nhà thờ Bác Hồ, phía trước mặt là gác chuông 3 tầng. Chùa Đông Cao đã được công nhận là di tích lịch sử – văn hoá cấp tỉnh năm 2004. Hàng năm, cứ vào ngày 14, 15 tháng Giêng, bà con trong xã và du khách thập phương lại tới chùa làm lễ cầu nguyện năm mới an lành, cây cối đâm chồi nảy lộc, vạn vật tốt tươi. Lễ hội còn diễn ra các hoạt động giao lưu văn hoá, văn nghệ (ảnh) và các trò chơi dân gian thu hút đông đảo người dân tham gia như: Đấu vật, cờ tướng, chọi gà… Chùa thường được gọi là chùa Đông Cao, chùa Cao, tọa lạc trên một ngọn đồi thuộc xã Tân Hương, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Từ Hà Nội đến địa phận tỉnh Thái Nguyên, đi 16km nữa thì đến chùa. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa được dựng vào thời Hậu Lê. Ngôi chùa ngày nay do Sư cụ Thích Đàm Hinh tổ chức xây cất vào ngày 17 tháng 5 năm 1992, hoàn thành ngày 21 tháng 7 năm 1992. Chùa còn giữ được các ngôi tháp, bia, cột đá thời Hậu Lê, như tấm bia cổ có khắc niên hiệu Chính Hòa năm thứ 18 (1697). NGUỒN: Viet Architect Group

Thái Nguyên 2570 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Lũy Thầy ( lũy Đào Duy Từ)

Di tích lũy Thầy, hay còn gọi là lũy Đào Duy Từ là hệ thống chiến lũy được hình thành trong cuộc chiến tranh Trịnh- Nguyễn (1627-1672) trên mảnh đất Quảng Bình với các chiến lũy Trường Dục ở Hiền Ninh, huyện Quảng Ninh, lũy Đầu Mâu, lũy Nhật Lệ ở thành phố Đồng Hới, được xếp hạng Quốc gia theo Quyết định số 97/Quyết Định ngày 21/1/1992 của Bộ Văn hóa- Thông tin (nay là Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch). Lũy Thầy còn có nhiều tên gọi khác như luỹ Nhật Lệ hay luỹ Đồng Hới, Trường Dục... thuộc tỉnh Quảng Bình ngày nay. Vua Thiệu Trị sau này từng gọi hệ thống lũy là nơi 'Định Bắc trường thành' để nhớ ơn tổ tiên đã giữ vững cõi Nam. Lũy Thầy là cái tên do người dân Đàng Trong đặt để tỏ lòng thành kính với danh nhân Đào Duy Từ như bậc thầy về quân sự và chính trị. Công trình này được bắt đầu khởi công năm 1630 sau khi giành thắng lợi tại trận chiến với quân Trịnh trên bờ sông Nhật Lệ, năm 1627. Công trình nhằm bảo vệ và củng cố Đàng Trong khỏi các cuộc tấn công của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Tiếp đó, năm 1631, chúa Nguyễn tiếp tục cử Đào Duy Từ và Nguyễn Hữu Dật xây thêm lũy Đầu Mâu và lũy Nhật Lệ (cả 2 lũy này gọi chung là lũy Trấn Ninh). Đến năm 1634, chúa Nguyễn lại cho đắp tiếp lũy Trường Sa dài 7km khép lại vùng động cát Bảo Ninh. Như vậy, trong vòng hơn 3 năm, chúa Nguyễn đã hoàn thiện 1 hệ thống chiến lũy dài gần 34 km. Đây là một hệ thống thành lũy liên hoàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều tuyến và được gọi chung là lũy Thầy. Đại Nam thực lục tiền biên có ghi: Lũy Trường Dục xây theo kiểu chữ Hồi, cho nên còn được gọi là Lũy Hồi Văn. Theo đó, ngoài có khung thành bao bọc, trong là doanh trại, công sự chiến đấu, kho tàng bố trí theo lối chữ Dĩ liên hoàn chặt chẽ với lũy ngoài. Lũy dài 2.500 trượng, chân rộng trượng rưỡi, cao 1 trượng (khoảng 4m). Lũy Trường Dục là một công trình kiến trúc thể hiện tài năng quân sự của Đào Duy Từ. Năm 1648, sau khi đánh không được cửa lũy Trường Dục, quân Trịnh quay sang đánh vào vùng Võ Xá và thu được thắng lợi. Song, khi chiếm được chỗ đứng chân thì lại bị quân Lưu Đôn chặn đánh ở Thập Dinh (nay vẫn còn xã Dinh Mười, huyện Quảng Ninh) đẩy xuống vùng đầm lầy Võ Xá, vốn là một dải đầm lầy tự nhiên kéo theo đường thiên lý từ Quảng Bình vào Thuận Hóa. Quân Trịnh bị sa lầy tại đây. Và trong thế trận tiến thoái lưỡng nan do không có được sự hỗ trợ từ đường thủy, sau đó buộc phải rút quân ra Bắc. Chính vì sự kiện này mà đến nay, dân gian truyền tục câu ca: “Nhất sợ Lũy Thầy, nhì sợ đầm lầy Võ Xá”. Hai trăm năm sau, khi vua Thiệu Trị hành hương qua hệ thống lũy Thầy xúc động trước hệ thống thành luỹ hùng vĩ này đã đặt thêm cho nó cái tên "Định Bắc trường thành" để nhớ ơn tổ tiên đã giữ vững cõi Nam. Trải qua thời gian và bom đạn chiến tranh, lũy Thầy gần như hư hại hoàn toàn. Đến năm 1994, lũy được phục hồi lại nguyên trạng và được Nhà nước công nhận là di tích Quốc gia. Lũy Thầy ngày nay còn dấu tích rõ nét ở đường Quách Xuân Kỳ và phía Tây phường Phú Hải, thuộc địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình và trở thành dấu tích trăm năm nhắc nhở các thế hệ về một thời nhà Trịnh -Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình

Quảng Trị 2772 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Bến đò và tượng đài Mẹ Suốt

Tên tuổi anh hùng Nguyễn Thị Suốt được cả nước biết đến như biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Tên tuổi của mẹ gắn liền với sự kiện lịch sử trong những ngày đầu đánh Mỹ của quân và dân Quảng Bình nói riêng và cả nước nói chung. Là biểu tượng sinh động, hào hùng của dân tộc ta quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ, để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Mẹ Suốt là một phụ nữ tiêu biểu của vùng đất “hai giỏi” như Bác Hồ kính yêu đã khen tặng “Quảng Bình chiến đấu giỏi, sản xuất cũng giỏi”. Trải qua những năm tháng trường kỳ chống thực dân Pháp và đi đến thắng lợi. Năm 1954, Hòa bình lập lại chưa được bao lâu thì đế quốc lại gây chiến tranh phá hoại. Dựng ra sự kiện vịnh Bắc Bộ, năm 1964, đế quốc Mỹ bắt đầu đánh phá miền Bắc mà vùng đất Đồng Hới - Quảng Bình được chúng xem là cán soong, là tuyến đầu của hậu phương lớn, nên chúng đã tập trung đánh phá với mức độ ác liệt và dữ dội nhất với ý đồ nhằm huỷ diệt và san bằng, biến nơi đây trở về thời kỳ đồ đá. Mẹ Nguyễn Thị Suốt sinh ra ở xóm Vạn chài làng Phú Mỹ (nay thuộc thôn Mỹ Cảnh, xã Bảo Ninh, thị xã Đồng Hới). Từ thuở nhỏ phải đi ở nuôi thân, cuộc đời mẹ hết đi ở đợ nhà giàu này đến nhà giàu khác, làm thuê làm mướn suốt năm, suốt tháng mà vẫn khổ cực. Cách mạng tháng Tám thành công chặt đứt xiềng xích nô lệ, giải phóng quê hương, giải phóng dân tộc và giải phóng chính cuộc đời mẹ. Nhưng chưa kịp mừng vui thì thực dân Pháp lại xâm lược nước ta lần nữa và cũng như đồng bào cả nước, mẹ phải tiếp tục cuộc đời lầm than, cay đắng. Khi giặc Mỹ gây chiến tranh phá hoại miền Bắc, lúc này mẹ đã tròn 60 tuổi, nhưng theo tiếng gọi của cách mạng, của Bác Hồ và của Đảng bộ địa phương, thấu hiểu cuộc đời lầm than nô lệ, cảnh nước mất nhà tan cũng như thấm nhuần tình yêu quê hương, căm thù giặc Mỹ tàn phá xóm làng. Mẹ Suốt đã xung phong nhận lấy một công việc tưởng như bình thường, đơn giản nhưng cực kỳ nguy hiểm: Đó là chở đò ngang qua sông Nhật Lệ lúc bấy giờ là một trong ba nhiệm vụ quan trọng của tổ 3 phòng: phòng chữa cháy, cấp cứu, chuyển tải thương binh và giao thông đi lại. Ngược dòng thời gian để trở lại những ngày đầu chống mỹ. Hôm đó là ngày chủ nhật 7 tháng 2 năm 1965 (tức là ngày mồng 6 tết ất Tỵ) không lực Hoa Kỳ ồ ạt tấn công bắn phá thị xã Đồng Hới và các vùng lân cận (chúng đã huy động 160 lần chiếc máy bay phản lực hiện đại). Thị xã Đồng Hới như rung chuyển trong khói lửa đạn bom của kẻ thù. Trên sông Nhật Lệ, những cột nước đen ngòm tung lên dữ đội bởi đạn bom. Mẹ Nguyễn Thị Suốt vẫn hiên ngang cầm chắc tay chèo chở bộ đội sang sông, vận chuyển đạn từ bờ ra tàu chiến của ta để đánh trả quân thù. Những chuyến đò của mẹ cũng là đường dây thông tin liên lạc giữa thị xã Đồng Hới với Bảo Ninh. Dưới làn mưa bom bảo đạn của kẻ thù, mẹ cùng chiếc đò ngang đưa đón cán bộ, bộ đội, nhân dân qua lại đôi bờ. Không hình ảnh nào đẹp hơn một bà mẹ đã ngoài 60 tuổi mà vẫn bất chấp hiểm nguy, hiên ngang ngẩng cao đầu trước hàng loạt đạn bom của Mỹ luôn khống chế và ngăn chặn. Những người đã từng qua đò của mẹ trong những giờ phút nóng bỏng đó không thể không khâm phục trước lòng quả cảm, gan dạ của một bà mẹ đã biến căm thù thành hành động phi thường. Và cho đến nay, Những người đã từng trực tiếp chiến đấu và chứng kiến sáng 7 tháng 2 năm 1965 vẫn không thể lý giải và hiểu nổi vì sao giữa dòng Nhật Lệ nước sôi, đạn bỏng mà mẹ Suốt vẫn anh dũng xông pha và hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc đến thế: tiếp đạn cho hải quân ta đánh trả máy bay Mỹ, đưa thương binh vào bờ, chở bộ đội sang sông. Chiến công của mẹ Suốt cùng bao chiến công thầm lặng khác của quân và dân Đồng Hới đã lập nên một kỳ tích vang dội chỉ trong hai ngày 7 và ngày 8 tháng 2 năm 1965, quân dân Đồng Hới đã bắn rơi 14 máy bay Mỹ; Từ ngày 14 tháng 2 đến ngày 28 tháng 4 năm 1965 - 5 tàu chiến Mỹ bị bắn chìm, bắn cháy tại biển Nhật Lệ - mở đầu cho thắng lợi rực rỡ của quân và dân ta. Sau trận chiến đấu ác liệt ấy, con đò mẹ Suốt lại tiếp tục đưa đón cán bộ, bộ đội sang sông trong những ngày đánh Mỹ. Với những chiến công của mẹ, ngày 01 tháng 1 năm 1967, mẹ Nguyễn Thị Suốt đã được Đảng và Nhà nước ta phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Chiến tranh ngày càng ác liệt, bị thua đau ở miền Nam, đế quốc Mỹ lại tăng cường đánh phá miền Bắc và Đồng Hới lại tiếp tục hứng chịu cảnh đạn bom. Ngày 11/10/ 1968 trong lúc làm nhiệm vụ mẹ Suốt đã anh dũng hy sinh bởi một trận bom đạn của kẻ thù. Như là một bức tranh sinh động về chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Hình tượng đó đã được nhân dân Quảng Bình, nhân dân cả nước biết đến như tấm gương tiêu biểu của bà mẹ Việt Nam anh hùng. Bến đò mẹ chèo năm xưa đã trở thành một di tích lịch sử tiêu biểu ở Quảng Bình trong thời kỳ chống Mỹ với tên gọi thân thương, kính trọng: Bến đò Mẹ Suốt. Di tích bến đò Mẹ Suốt nằm ở địa phận thôn Trung Bính, xã Bảo Ninh (phía hữu ngạn) và gần chợ cá Đồng Hới (phía tả ngạn sông Nhật Lệ). Năm 1980, để tưởng nhớ và cảm kích về một người Mẹ anh hùng của quê hương, Uỷ Ban Nhân Dân thị xã Đồng hới đã cho xây dựng bia đài Mẹ Suốt nằm giữa trung tâm của bến đò để hàng ngày người dân Quảng bình đều được gần gũi bên hình tượng của Mẹ. Nơi đây, một ngày không xa, tượng đài Mẹ Suốt sẽ là nơi giao lưu, sinh hoạt văn hóa của nhân dân địa phương trong tỉnh, là nơi vui chơi quây quần của các cháu thiếu nhi, là nơi để nhân dân cả nước khi thăm bến đò Mẹ Suốt năm xưa tỏ lòng ngưỡng mộ trước một bà mẹ Việt Nam anh hùng. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Đồng Hới , tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 3197 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Miếu Thành Hoàng Mỹ Thổ - Trung Lực

Miếu thành hoàng Mỹ Thổ - Trung Lực nằm trên đồi Lòi Dạ, thôn Tân Lực, xã Tân Thủy. Phía đông giáp làng Trung Lực, phía tây giáp làng Mỹ Thổ. Từ chợ Mai - ngay sát đường quốc lộ 1A đi vào theo đường đất khoảng 4 km về phía đông nam là tới di tích. Miếu thành hoàng Mỹ Thổ - Trung Lực gắn liền với những sự kiện lịch sử tiêu biểu của Đảng bộ Quảng Bình, gắn liền với những ngày đầu phấn đấu để đi đến việc thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở phía Nam tỉnh Quảng Bình, với cuộc đấu tranh để giữ gìn, phát triển phong trào cách mạng, gắn liền với cuộc vận động giải phóng dân tộc của tỉnh, của nước trong cách mạng tháng Tám. Trong phong trào Cần Vương, vùng Mỹ Thổ - Trung Lực là nơi tập kết, giấu quân Cần Vương. Nghĩa quân của Hoàng Phúc, Đề én, Đề Chít thường lưu trú nơi đây, được nhân dân che chở (Đề Chít lấy vợ quê Mỹ Thổ). Trong hàng ngũ nghĩa quân có hàng chục người chỉ huy vốn là dân Mỹ Thổ - Trung Lực. Các nhà nho có hiểu biết ở hai làng đều tham gia hay có cảm tình với nghĩa quân Cần Vương. Ngày 3-2-1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, một phong trào đấu tranh được Đảng phát động trong toàn quốc, đặc biệt là cao trào 1930-1931, Xô Viết - Nghệ Tĩnh ra đời cổ vũ phong trào các địa phương. Vào những năm 1929 - 1930, những thanh niên hăng hái đầy nhiệt huyết của Trung Lực - Mỹ Thổ đi tìm cách mạng, mang trong mình tinh thần yêu nước, bằng nhiều con đường trong những thời gian khác nhau đã lần tìm bắt liên lạc với Đảng. Được sự ủy nhiệm của Tỉnh ủy Quảng Trị, một số cơ sở Đảng ở Vĩnh Linh tìm cách phát triển cơ sở ra vùng Lệ Thủy. Ông đồ nho Dương Công Phát - một quần chúng tốt làm trung gian cho Chi bộ Đảng bắt liên lạc với những thanh niên hăng hái cách mạng, trong đó có 3 người: Lê Thuận Chất, Lê Thuận Sản, Nguyễn Đông. Theo sự hướng dẫn của Đảng, anh Chất mang tài liệu tuyên truyền của Đảng về địa phương và cùng với anh Sản tổ chức những anh em nông dân nghèo, có tinh thần yêu nước, chống địa chủ phong kiến vào 7 tổ có 21 người, gọi là tổ "Nông hội đỏ’’, một hình thức tổ chức như Xô Viết - Nghệ Tĩnh, nhằm tập hợp nông dân cách mạng. Theo chỉ thị của Tỉnh ủy Quảng Trị, các cán bộ Đảng tìm cách đột nhập và ở lại cơ sở tại vùng Mỹ Thổ - Trung Lực. Anh Nguyễn Đông tự nguyện đem cán bộ Đảng về nuôi giấu trong nhà. Đồng chí Đoàn Bá Thừa về cơ sở giáo dục 3 quần chúng cốt cán để đưa các đồng chí đó vào Đảng, chỉ đạo 3 quần chúng tiến hành tổ chức các cơ sở quần chúng khác. Bí mật tổ chức những cuộc tuyên truyền cương lĩnh của Đảng cộng sản trong từng nhóm quần chúng tốt ở Mỹ Thổ - Trung Lực. Ba quần chúng trung kiên Chất, Sản, Đông lại được rèn luyện thử thách nhiều trong việc bảo vệ cán bộ, vận động quần chúng. Đêm 17-11-1931, tại miếu thành hoàng làng Trung Lực, đồng chí Đoàn Bá Thừa thay mặt Đảng kết nạp 3 đồng chí Chất, Sản, Đông vào Đảng cộng sản Đông Dương. Cũng đêm đó, đồng chí Đoàn Bá Thừa thay mặt cấp uỷ cấp trên quyết định thành lập chi bộ Mỹ Trung, chi bộ Đảng đầu tiên ở phía Nam tỉnh. Chi bộ do đồng chí Chất làm Bí thư, mở đầu một thời kỳ mới, một bước ngoặt quan trọng trong đời sống chính trị và tình cảm của nhân dân hai làng Mỹ Thổ - Trung Lực và phong trào đấu tranh ở vùng Nam Quảng Bình. Đến tháng 6-1932, chi bộ đã có 9 đồng chí, chi bộ cử ra chi ủy, phân công một số việc: Thành lập đội xích vệ, gây quỹ tạo vốn, tiếp chuyển tài liệu từ Vĩnh Linh ra Lệ Thủy và ngược lại. Chi bộ đã phát động quần chúng đấu tranh, thu được một số thành công bước đầu: Năm 1935, chi bộ phát triển lên 12 đồng chí với một đội xích vệ khá mạnh. Các hội quần chúng của Đảng đã có hàng trăm người tham gia. Đầu tháng 9/1941, đồng chí Bùi Trung Lập, cán bộ Tỉnh uỷ Quảng Trị được xứ ủy Trung Kỳ phái ra liên lạc với chi bộ Mỹ Trung, phổ biến tình hình nhiệm vụ mới và truyền đạt Nghị quyết lần thứ VIII của Trung ương Đảng. Nội dung nêu: “Nhiệm vụ giải phóng dân tộc nhiệm vụ bức thiết nhất của cách mạng Đông Dương” và chủ trương thành lập mặt trận Việt Minh. Cơ sở Việt Minh Mỹ Thổ - Trung Lực được thành lập do đồng chí Lê Thuận Chất làm chủ nhiệm, chi bộ lúc này đã có 29 đảng viên, đồng chí Lê Thuận Khuông làm Bí thư. Tháng 11/1942, bọn tay sai mật thám lần được đầu mối ta ở Trung Lực - Mỹ Thổ, chúng đã bắt Lê Gia Liêu và 13 đồng chí khác. Sau đó, đồng chí Bùi Trung Lập cũng bị bắt. Một thời kỳ đẫm máu đầy thử thách đối với cơ sở Đảng, quần chúng nhân dân Mỹ Thổ - Trung Lực. Mặc dù bị địch tra tấn dã man, các đảng viên, các đồng chí kiên trung của Mỹ Thổ - Trung Lực vẫn chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Có những cơ sở Đảng trung kiên như vợ chồng anh Đinh Tứ Khắc, chị Tương là những tấm gương củng cố lòng tin với Đảng, với cách mạng. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, tin này truyền nhanh đến Mỹ Thổ - Trung Lực. Ngày 27/3/1945, đồng chí Võ Hồ Thanh (Võ Hậu), đồng chí Nguyễn Văn Đồng (Đồng Sỹ Nguyên) về nối lại liên lạc và chỉ thị của cấp trên đối với Mỹ Thổ - Trung Lực. Cuối tháng 6/1945, Ban thống nhất Trung Kỳ cử đồng chí Hồng Xích Tâm vào truyền đạt chỉ thị của Trung ương, lời kêu gọi của Ban thống nhất Trung Kỳ cho các cơ sở ở Quảng Bình và liên lạc với đồng chí Võ Hồng Thanh ở Mỹ Thổ - Trung Lực và đồng chí Trần Hữu Dực, chuẩn bị thành lập cơ quan lãnh đạo chung của tỉnh. Đầu tháng 7/1945, Hội nghị các Đảng bộ toàn tỉnh triệu tập tại chùa An Xá. Đồng chí Lê Thuận Khuông, Bí thư Chi bộ Mỹ Thổ - Trung Lực là một trong 13 đại biểu dự Hội nghị đó. Hội nghị thành lập mặt trận Việt Minh tỉnh tại An Sinh, quyết định trụ sở tỉnh bộ đóng tại Mỹ Thổ. Đêm 22 rạng 23 tháng 8, quần chúng cách mạng Mỹ Thổ - Trung Lực và 18 làng phụ cận chia thành 4 mũi kéo thẳng lên huyện đường Lệ Thuỷ cùng với các mũi tiến công khác trong huyện tiến hành hợp vây giành chính quyền ở huyện, góp phần cùng cả tỉnh cả nước làm nên cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng 8 thành công thắng lợi. Hiện nay, di tích đã được đầu tư kinh phí, trùng tu lại miếu, cổng vào di tích và một tấm bia hoành tráng đã được dựng lên ghi lại sự kiện lịch sử đáng ghi nhớ này. Hàng năm cứ vào ngày 17/11 Đảng bộ và nhân dân huyện Lệ Thủy tổ chức dâng hương, viếng thăm di tích. Đây thực sự là địa chỉ đỏ ngời sáng để giáo dục các thế hệ trẻ, nguyện sống và làm việc, phấn đấu theo con đường mà Đảng và Bác Hồ đã chọn. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Lệ Thủy , tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 2974 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Minh Lý

Sáng ngày 06/01, Đảng ủy, chính quyền và nhân dân xã Minh Lập đã tổ chức Lễ đón nhận Bằng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh cho đình Minh Lý. Đình Minh Lý thuộc xóm Minh Lý, xã Minh Lập là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân trong xã. Đình thờ vị anh hùng dân tộc Dương Tự Minh, người có đóng góp to lớn trong việc duy trì, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc đánh đuổi giặc ngoại xâm, được nhân dân tôn kính và lập đền thờ Thành hoàng làng. Ngôi đình đã có từ rất lâu, song do biến thiên của lịch sử, thiên tai tàn phá khiến Đình Minh Lý bị xuống cấp nghiêm trọng. Năm 2007, nhân dân 4 xóm Ao Sơn, Đoàn Kết, Làng Chu và Theo Cày đã cùng nhau công đức xây dựng lại ngôi đình trên nền cũ. Đình gồm có tiền tế và hậu cung, tổng diện tích đất xây dựng là 1.903 m. Hằng năm tại đình có 2 kỳ lễ chính vào ngày 09/1 và ngày 20/11 âm lịch, ngoài ra còn có các ngày lễ khác như lễ hạ điền và thượng điền. Lễ vật dâng lên thành hoàng làng chủ yếu là các nông sản tại địa phương với mục đích cầu cho mưa thuận gió hòa,cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, nhân dân các dân tộc trên địa bàn được ấm no hạnh phúc. Với những giá trị về lịch sử và văn hóa, UBND tỉnh Thái Nguyên quyết định công nhận đình Minh Lý là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Đây là niềm vui của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Minh Lập nói riêng và huyện Đồng Hỷ nói chung. Việc được công nhận là di tích lịch sử góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, giáo dục truyền thống yêu nước, đáp ứng nhu cầu tâm linh của nhân dân trên địa bàn./. NGUỒN TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN ĐỒNG HỶ

Thái Nguyên 2513 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Địa điểm đóng quân Cục Thông tin liên lạc

Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, đã có nhiều cơ quan được thành lập, đóng và làm việc tại ATK Định Hóa. Trong số này có cơ quan Cục Thông tin, Bộ Quốc phòng. Ngày 31/7/1949, Bộ trưởng Bộ quốc phòng ban hành Nghị định số 123/NĐ thành lập Cục Thông tin thuộc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Quốc gia và Dân quân, tự vệ Việt Nam. Cơ quan thành lập trên cơ sở Phòng Thông tin liên lạc quân sự do đồng chí Hoàng Đạo Thúy làm Trưởng phòng. Theo Nghị định, Cục Thông tin là cơ quan tham mưu cho Bộ Tổng tư lệnh về mặt thông tin liên lạc; tổ chức, giữ vững thông tin liên lạc từ Bộ Tổng Tham mưu đến các chiến trường, các đơn vị chỉ đạo nghiệp vụ; trang bị vật chất kỹ thuật cho các đơn vị thông tin liên lạc trực thuộc Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh; thống nhất tất cả các lực lượng thông tin liên lạc ở cơ quan Bộ Quốc phòng, Sở Vô tuyến điện Việt Nam và đưa về nằm trong đội hình Cục Thông tin. Trong giai đoạn 1952-1953, cơ quan Cục Thông tin ở và làm việc ở xóm Khuổi Tát, xã Quy Kỳ (Định Hóa). Địa điểm này đã được khảo sát, xác định vị trí nhưng được xây bia di tích. Ông Hoàng Văn Chức, sinh năm 1942, ở xóm Khuổi Tát, xã Quy Kỳ xác nhận: Khu vực Cục Thông tin làm việc nằm ở trên lưng chừng đồi, san gạt nền tương đối rộng. Sau khi chuyển đi thì nơi này vẫn còn giấu khá nhiều máy móc và điện đàm nhưng nay không còn và gần như mất dấu. Tháng 5-1953, Cục Thông tin chuyển địa điểm đến xóm Khuân Giàng, xã Trung Hội (từ năm 1953 đến nay thuộc xã Trung Lương, Định Hóa). Tuy còn nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng đội ngũ cán bộ đơn vị đã xác định quyết tâm trong thời gian 6 tháng phải hoàn thành những công việc: Hình thành tổ chức cơ quan và đơn vị thuộc Cục; mở lớp đào tạo sĩ quan tham mưu, thông tin liên lạc và cán bộ kỹ thuật sửa chữa vô tuyến điện, điện thoại, máy phát điện; dự thảo trình Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh duyệt và ban hành phương án tổ chức hệ thống thông tin liên lạc trong toàn quân; sắm và sửa chữa các phương tiện khí tài thông tin liên lạc để sớm trang bị cho các đơn vị, đồng thời nhanh chóng biên soạn tài liệu “Thông tin liên lạc sơ lược” để huấn luyện trong toàn quân. Cũng tại Khuân Giàng, Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đã dành nhiều thời gian đến làm việc và nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ của Cục Thông tin. Ông nhấn mạnh: “Thông tin liên lạc cần nắm chắc những nhiệm vụ cốt yếu nhất, trong đó hàng đầu là xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ có đủ trình độ đảm nhận nhiệm vụ, bảo đảm chỉ huy bộ đội trong điều kiện tác chiến vận động với quy mô lớn hơn. Phương hướng tự lực là đúng nhưng Cục Thông tin cần tăng cường phương tiện vật chất - kỹ thuật cho cấp chiến dịch, chiến thuật để đủ sức hoàn thành nhiệm vụ…”. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Cục Thông tin đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, bảo đảm thông tin liên lạc cho lãnh đạo, chỉ huy các cấp phối hợp giữa các chiến trường; góp phần xây dựng các đại đoàn chủ lực, bảo đảm cho chỉ huy tác chiến của ba thứ quân, cho đấu tranh chính trị, ngoại giao…phục vụ đắc lực cho lực lượng vũ trang đấu tranh giành thắng lợi trong các chiến dịch, đặc biệt là cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân (1953-1954) mà đỉnh cao là Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954. Với ý nghĩa lịch sự quan trọng như vậy, địa điểm đóng quân của Cục Thông tin (1953-1954) tại Khuân Giàng, xã Trung Lương đã được UBND tỉnh công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh vào tháng 8-2017. NGUỒN: Báo Thái Nguyên

Thái Nguyên 2720 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Địa điểm an táng nhà yêu nước Lương Ngọc Quyến

Ngày 25-8, tại xóm Thống Nhất 3, xã Vô Tranh (Phú Lương), huyện Phú Lương đã long trọng tổ chức Lễ đón nhận và động thổ công trình ghi dấu tích địa điểm an táng nhà yêu nước Lương Ngọc Quyến cấp tỉnh. Nhà yêu nước Lương Ngọc Quyến sinh năm 1885, 19 tuổi tham gia vào sự nghiệp giải phóng dân tộc; 29 tuổi, bị thực dân Pháp bắt giữ, kết án chung thân cấm cố qua nhiều nhà tù. Ngày 25-7-1916, chúng chuyển ông lên giam ở Nhà tù Thái Nguyên. Tại đây, ông đã giác ngộ lòng yêu nước, ý chí đấu tranh cho các bạn tù và binh lính khố xanh, trong đó có Trịnh Văn Cấn (tức Đội Cấn). Cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên nổ ra đêm 30-8-1917, đến ngày 4-9-1917, ông bị trúng đạn pháo của địch, hy sinh. Nghĩa quân chôn cất ông ở phía Đông Nam đồi Gò Mu, xóm Thống Nhất 3, xã Vô Tranh (Phú Lương). Ngày 23-12-2001, được sự giúp đỡ của chính quyền địa phương và cơ quan chuyên môn, các hậu duệ đã lấy di cốt ông mang về quê nhà, xã Nhị Khê, huyện Thường Tín (Hà Tây) truy điệu, an táng. Nơi ông yên nghỉ (1917-2001) được tỉnh Thái Nguyên xếp hạng Di tích lịch sử cấp tỉnh (Quyết định số 2386/QĐ-UBND, ngày 10-8-2017). Diện tích đất khoanh vùng bảo vệ di tích rộng 1.281m­2, trong đó khu vực an táng rộng 335 m2; khu vực cảnh quan tiếp giáp và khu vực phụ cận rộng 946 m2. Cùng ngày, các đại biểu đã tham gia Lễ động thổ công trình; UBND xã Vô Tranh cũng đã công bố quyết định thành lập Ban Quản lý Di tích, gồm 11 người. NGUỒN: Báo Thái Nguyên

Thái Nguyên 2854 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Núi Thần Đinh.

Núi Thần Đinh ở thôn Rào Đá, xã Trường Xuân, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Núi này còn gọi là Bất Nghĩa Sơn . Cách Thành Phố Đồng Hới khoảng 25km về phía Tây Nam và cách đường Hồ Chí Minh nhánh Đông 3km, ngọn núi này mang nhiều huyền tích về một cõi tâm linh, từng được người xưa coi là “chốn đa Phật” Trên núi còn nhiều di tích của một ngôi chùa khá tiếng tăm, liên quan đến câu chuyện về chiếc chuông đồng của vua Càn Long đem phụng cúng cho chùa vì tiền kiếp của mình... Trông xa núi mang hình một chiếc yên ngựa. Núi nằm ở độ cao 405m so với mực nước biển và mất chừng khoảng 40 phút leo qua 1260 bậc đá để lên đến Chùa Non (còn có tên Kim Phong). Chùa được xây dựng vào năm 1701. Ở đây tồn tại tấm bia đá lập vào thời Minh mạng thứ 11 (1830) ghi chép về chùa. Trước cửa chùa có giếng nước trong vắt, mát ngọt, không bao giờ cạn được gọi là giếng Tiên. Giếng nằm ngay giữa bốn bề là đá khô khốc, vậy mà không biết nước có từ đâu để giếng luôn đầy cho dù là vào những năm nắng nóng khô hạn nhất. Bây giờ nhiều người tứ xứ đến ngoạn cảnh Thần Đinh, họ không quên mang theo chai nước để lấy ít nước từ giếng Tiên về dùng, coi như nguồn nước tinh tuý từ chốn thần tiên với bao điều mong ước. Đứng trên đỉnh núi Thần Đinh nghe gió ù thổi, nghe truyền thuyết kể rằng: Thầy Ân Khả đã tu ở chùa này (chùa Kim Phong) từ năm 1694 (đời Lê Huy Tông, niên hiệu Chính Hòa, ứng với triều Khang Hy bên Trung Quốc), thầy là người đức độ tài trí, được tăng ni phật tử trong vùng yêu mến. Trước khi viên tịch, thầy cắt một ngón tay út bỏ vào tráp để lại cho chùa. Lạ thay ngón tay tươi mãi không hề bị thối rữa. Sau này thầy đầu thai vào một gia đình bên Trung Quốc và tái sinh trong hình hài vua Càn Long (1736-1796) (tương truyền vua Càn Long cũng bị thiếu mất một ngón tay út). Vua Càn Long linh cảm tiền kiếp có duyên nợ với chùa non trên núi Thần Đinh bên Đại Việt nên đã gửi một quả chuông sang tặng, chuông có khắc mấy chữ "Thần Đinh chung". Thuyền chở chuông vào đến cửa sông Nhật Lệ thì không may bị bão tố nhấn chìm. Sau này một ngư dân quê ở huyện Bố Trạch tên là Đặng Văn Tiên, trong một lần thả lưới đã bắt được quả chuông và đem cúng vào chùa Non trên núi Thần Đinh. Không biết huyền thoại về quả chuông đồng do vua Càn Long tặng có thật hay không. Một số người cho rằng hiện nay quả chuông chùa Non trên núi Thần Đinh đang được treo ở chùa Phổ Minh (ở Thành Phố Đồng Hới). Chiếc chuông của chùa Phổ Minh hiện nay là có thật, nhưng có liên quan với truyền thuyết trên hay không thì chưa ai khẳng định. Toàn đỉnh núi Thần Đinh là những dãy đá vôi thấp màu xám đen, lô nhô như những dãy núi nhỏ mọc lên từ một đỉnh núi lớn trông rất kỳ lạ. Phải chăng vì vậy mà người xưa từng gọi chùa Thần Đinh bằng tên khác nữa là chùa Non? Núi Thần Đinh có ba ngọn. Đá xếp chồng lên nhau gợi cho ta tưởng tượng đây là vị quan viên đội mũ cánh chuồn đang đọc văn. Kia là hình con đại bàng tung cánh, nọ là con hổ đang nhe nanh vuốt. Ngôi chùa Thần Đinh xưa nay chỉ còn lại những mảng tường đá rêu phong, đổ nát, chen đầy cây cối, giữa một vạt đất bằng phẳng đầy cây cổ thụ. Một vài căn miếu nhỏ nằm lẻ loi ở rìa cây phía Bắc là còn khá nguyên vẹn. Cảnh sắc Thần Đinh gợi nhớ biết bao đến tiền nhân. Núi Thần Đinh bây giờ đã trở thành điểm du lịch sinh thái, tâm linh khá hấp dẫn cho du khách. Những người thành tâm khi đến dâng hương, uống nước giếng thần sẽ gặp nhiều may mắn, tránh được ốm đau bệnh tật, cả năm làm ăn phát đạt. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 2859 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di Tích Lịch Sử Bến Phà Quán Hàu

Bến phà Quán Hàu, là nơi ghi dấu ấn những hoạt động của các công nhân bến phà khi nhiều lần bãi công, dừng chạy phà để cản bước chân quân xâm lược thực dân Pháp. Đây cũng chính là "toạ độ lửa" trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước khi hàng ngày đế quốc Mỹ đã trút hàng ngàn tấn bom hòng chặt đứt nguồn lực tiếp tế từ hậu phương vào tiền tuyến… Bến phà Quán Hàu là di tích lịch sử cấp Quốc gia ở trên QL1A đoạn đi qua thị trấn Quán Hàu huyện Quảng Ninh. Năm 1886, thực dân Pháp đã cho xây dựng bến phà để vượt sông Nhật Lệ. Hàng ngày, những chiếc phà gỗ thô sơ được dùng để vận chuyển người, lương thực, quân đội Pháp qua lại phục vụ mục đích xâm lược của thực dân. Để ngăn cản những bước chân xâm lược của thực dân Pháp, những người công nhân làm việc tại bến phà đã nhiều lần tổ chức đình công, bỏ chèo và cương quyết không tiếp tay cho mục đích xâm lược của thực dân. Những hành động kiên quyết của công nhân bến phà đã góp phần công sức cùng toàn dân đánh đuổi thực dân xâm lược…Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hàng vạn tấn bom đạn của Mỹ đã ném vào bến phà này nhằm chặt đứt tuyến đường huyết mạch vận chuyển hàng hoá, nguồn lực từ miền Bắc chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. Mặc dù trong mưa bom bão đạn dày đặc của đế quốc Mỹ, các chiến sĩ làm nhiệm vụ tại bến phà này đã anh dũng chiến đấu, bắn trả máy bay địch. Với ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, được sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền nhân dân huyện Quảng Ninh và sự đùm bọc, giúp đỡ của quân và dân địa phương các xã anh hùng như Lương Ninh, Vĩnh Ninh, Võ Ninh... các cán bộ, chiến sĩ bến phà Quán Hàu đã phát huy truyền thống cách mạng của quê hương "Hai giỏi", xác định tư tưởng chấp nhận gian khổ hy sinh, quyết chiến quyết thắng, dù tình huống nào cũng bảo đảm mạch máu giao thông thông suốt "phà chờ xe chứ quyết không để xe chờ phà". Cán bộ chiến sĩ phà Quán Hàu đã lập nhiều chiến công xuất sắc, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Theo chiều dài lịch sử, mỗi ngày bến phà Quán Hàu có nhiều lượt đưa bộ đội, đưa hàng tiếp tế, đưa vũ khí đạn dược vượt qua mưa bom bão đạn để chi viện cho miền nam ruột thịt. Nơi đây cũng đã có biết bao cái tên đi vào huyền thoại trong kháng chiến của quê hương như tấm gương tận tụy, hy sinh của liệt sĩ…Cùng với sự phát triển đi lên của đất nước, bến phà Quán Hàu đã dừng hoạt động và thay vào đó là chiếc cầu Quán Hàu hiện đại được xây dựng nối hai bờ Nam - Bắc phục vụ việc phát triển kinh tế xã hội của địa phương nói riêng và cả nước nói chung. Bến phà Quán Hàu cũng đã được xếp hạng là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Hiện nay, điểm di tích này đã được đầu tư xây dựng là nơi người dân huyện Quảng Ninh thường xuyên đến dâng hương tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ… Nguồn Trang thông tin điện tử huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 2974 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Bến phà Long Đại

Nơi đây ghi dấu sự hy sinh anh dũng của 16 thanh niên xung phong thuộc đơn vị C130 tỉnh Thái Bình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cách đây 50 năm: 9/1972- 9/2022. Đây là những câu thơ viết vội của người sinh viên còn rất trẻ tên là Vũ Đình Văn khi đi trên một trong những chuyến phà qua sông Long Đại trong đội hình của đơn vị hành quân vào mặt trận Quảng Trị năm 1972. Chứng kiến cảnh chiến tranh ác liệt và sự hi sinh vô cùng lớn lao của bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến của các đơn vị phục vụ bến phà, anh vô cùng xúc động, cảm phục và đã viết nên bài thơ Đêm hành quân qua phà Long Đại. Bài thơ viết vội ấy đã có những câu thơ thực không thể thực hơn. Hơn nửa thế kỷ trước, bến Phà Long Đại là địa bàn nằm trong vùng “cán soong” của Quân khu IV, trở thành điểm “yết hầu”, “huyết mạch “, là cầu nối giao thông đặc biệt quan trọng trên tuyến đường 15 giữa hậu phương lớn miền Bắc với chiến trường miền Nam và nước bạn Lào, Campuchia. Bến phà còn là một trọng điểm vượt sông trọng yếu, ác liệt nhất của tuyến đường Hồ Chí Minh lịch sử. Chính tại nơi này, đế quốc Mỹ tập trung dội xuống hàng trăm tấn bom đạn dày đặc hòng hủy diệt và “bóp nghẹt” nguồn lực từ hậu phương chi viện vào tiền tuyến. Bến phà Long Đại cùng với các địa danh khác như: Mụ Dạ, Xuân Sơn, Cổng Trời, phà Gianh, phà Quán Hàu trở thành những “túi bom”, “chảo lửa” trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, nhất là từ những năm 1967-1971. Để đảm bảo giữ vững mạch máu giao thông thông suốt, tránh những khi bị địch đánh phá không thể vận chuyển hàng hóa và vũ khí được, từ tháng 1/1971 ở khu vực Long Đại được phát triển thành 2 bến phà: bến phà I ở sát cầu Long Đại ngày nay và bến phà II ở hạ lưu sông Long Đại cách bến I khoảng 500m. Tháng 7 – 1972, đế quốc Mỹ đánh phá ác liệt tại bến phà Long Đại và đường 15A. Đơn vị thanh niên xung phong huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An trong khi đang làm nhiệm vụ đã bị giặc Mỹ ném bom rải thảm vào đội hình làm cho đơn vị bị thương vong nặng nề phải chuyển về tuyến sau củng cố lực lượng. Để đảm bảo mạch máu giao thông thông suốt, đơn vị C130 được điều động ra đóng quân và thường trực ứng cứu tại đây cùng bộ đội công binh kịp thời thông xe thông tuyến. Sống và chiến đấu tại nơi được mệnh danh là “túi bom”, là “chảo lửa” nhưng các chiến sĩ Thanh Niên Xung Phong của Đại đội 130 vẫn không hề nao núng, luôn giữ vững ý chí và quyết tâm: “Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”, “Địch đánh phá ta sửa ta đi, địch lại phá ta lại sửa ta đi, “Sống bám cầu bám đường, chết kiên cường dũng cảm”. Địch đánh xong, ta cứu người, cứu hàng hóa, khí tài, người này ngã, người khác thay thế, tiếp tục làm nhiệm vụ thông bến, bảo đảm mạch máu giao thông. 15 giờ ngày 19/9/1972, trong lúc các chiến sĩ của đơn vị C130 tỉnh Thái Bình đang làm nhiệm vụ tại bến phà 2 Long Đại, thì máy bay Mỹ đã liên tục ném bom tại bến phà Long Đại và đánh vào đội hình của C130. Trận oanh kích của địch chỉ kéo dài trong khoảng một giờ đồng hồ đã gây những thiệt hại hết sức nặng nề và tổn thất lớn cho đơn vị: 15 chiến sĩ đã hy sinh (7 nữ, 8 nam), trong đó có 3 chiến sĩ hy sinh khi đang vận chuyển hàng bằng thuyền từ bờ Bắc sang bờ Nam sông Long Đại; 12 chiến sĩ hy sinh tại bến phà và trong hầm trú ẩn, một số đồng chí khác bị thương. Sau khi máy bay giặc Mỹ ngừng ném bom, khu vực đơn vị đóng quân chỉ còn lại bãi đất ngồn ngang hố bom. Các chiến sĩ đã khẩn trương đến khu vực hầm để đào bới thật nhanh với hy vọng đồng đội của mình vẫn an toàn, nhưng sau mỗi lớp đất trái tim họ lại quặn thắt khi nhìn thấy đồng đội của mình nằm đó, có những chiến sĩ thi thể không còn nguyên vẹn. Toàn đơn vị đã nén đau thương để mai táng các anh, các chị và tiếp tục nhiệm vụ của mình. Nỗi đau của đơn vị chưa nguôi, ngày 23/9/1972, đế quốc Mỹ lại tiếp tục ném bom xuống bến phà Long Đại, chiến sĩ Trần Mạnh Hà trong khi đang làm nhiệm vụ đã hy sinh. Đơn vị C130 một lần nữa lại phải tiễn đưa người đồng đội của mình trong niềm tiếc thương vô hạn, trong nỗi đau lên đến tột cùng. Sau hai đợt rải thảm bom của đế quốc Mỹ, đơn vị C130 đã hy sinh 16 đồng chí gồm 7 nữ, 9 nam. Các anh, các chị đã dũng cảm hy sinh khi đang làm nhiệm vụ tại bến phà 2 Long Đại ở thời điểm ác liệt nhất và mãi mãi nằm lại với đất mẹ Quảng Ninh (Quảng Bình). 50 NĂM ĐÃ TRÔI QUA (9/1972 – 9/2022), máu xương của các anh chị đã hòa vào dòng chảy của dòng sông Long Đại, an giấc ngàn thu. Để tri ân, tưởng nhớ các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, Tỉnh đoàn Quảng Bình đã phối hợp với Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam đầu tư xây dựng Nhà bia tưởng niệm 16 thanh niên xung phong hy sinh tại bến phà II Long Đại. Công trình khánh thành vào ngày 21-12-2012. Ngày 7-10-2016, Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Bình đã ban hành Quyết định số 3101/Quyết Định -Uỷ Ban Nhân Dân xếp hạng di tích lịch sử đối với nơi hy sinh của 16 Thanh Niên Xung Phong tại bến phà II Long Đại tháng 9-1972. Cùng với đền tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ Trường Sơn, di tích là “địa chỉ đỏ” trong hành trình du lịch thăm lại chiến trường xưa, tri ân đồng đội. Và trong mỗi người dân, cán bộ chiến sỹ trong và ngoài huyện nhà khi đến đây dâng hương tưởng niệm đều cảm thấy tự hào về những chiến công của các thế hệ cha anh đã chiến đấu anh dũng, hy sinh vì nền độc lập, tự do dân tộc. Nguồn Trang thông tin điện tử huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 2970 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Mộ và nhà thờ Hoàng Kế Viêm

Mộ và nhà thờ Hoàng Kế Viêm thuộc thôn Văn La, xã Lương Ninh (huyện Quảng Ninh) được xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh theo Quyết định số 2167/Quyết Định - Uỷ Ban Nhân Dân ngày 26-8-2011. Di tích là nơi để tưởng niệm Hoàng Kế Viêm-một nhân vật lịch sử có vai trò quan trọng trong thời kỳ chống Pháp nửa sau thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, đồng thời cũng là nơi để giáo dục cho thế hệ trẻ truyền thống yêu nước, lòng dũng cảm, kiên cường đấu tranh bảo vệ đất nước của tổ tiên, ông cha, khơi dậy lòng tự hào về truyền thống quê hương. Hoàng Kế Viêm (1820-1909) còn gọi là Hoàng Tá Viêm, tự Nhật Trường, hiệu Tùng An, quê làng Văn La, tổng Văn Đại, phủ Quảng Ninh (nay thuộc xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh). Năm 1843, Hoàng Kế Viêm thi đỗ cử nhân và được bổ làm tư vụ, hàm Quang Lộc Tự Khanh. Năm 1846, đời vua Thiệu Trị, ông làm lang trung Bộ Lại. Năm 1852, ông giữ chức án sát tỉnh Ninh Bình; năm 1854, ông được thăng Bố Chính tỉnh Thanh Hóa; năm 1859, là Bố Chính kiêm Tuần vũ tỉnh Hưng Yên; năm 1863, ông giữ chức Tổng đốc An-Tĩnh (Nghệ An-Hà Tĩnh). Trong thời gian này, ông đã có công trong việc trị an, mở mang kinh tế, phát triển dân sinh. Năm 1870, ở Bắc Kỳ xảy ra nhiều biến loạn, giặc Cờ Đen, Cờ Trắng, Cờ Vàng hoành hành, cướp phá, quấy nhiễu nhân dân, Pháp âm mưu chiếm vùng sông Hồng để được tự do buôn bán với vùng Vân Nam và Hoa Nam (Trung Quốc), khiến cho tình hình xã hội hết sức rối loạn. Trước tình hình đó, triều đình đã cử Hoàng Kế Viêm làm Thống đốc quân vụ đại thần bốn tỉnh Lạng-Bình-Ninh-Thái, trực tiếp chỉ huy quân thứ Tam Tuyên cùng với Tán tương Tôn Thất Thuyết lo việc dẹp loạn, ổn định Bắc Kỳ. Với kế sách “vừa đánh vừa dụ hàng”, chỉ sau một thời gian ngắn, Hoàng Kế Viêm đã thu phục được thủ lĩnh quân Cờ Đen là tướng Lưu Vĩnh Phúc, cùng hợp sức đánh tan giặc nổi loạn Cờ Trắng, Cờ Vàng. Nhờ vào công lao này, ông được phong hàm Đại học sĩ lãnh Tổng đốc Tam Tuyên, sung Tiết chế quân vụ Bắc Kỳ. Năm 1873, quân Pháp dưới sự chỉ huy của đại úy F.Garnier đánh chiếm thành Hà Nội và nhiều tỉnh khác ở Đồng bằng sông Hồng, Hoàng Kế Viêm được triều đình cử làm Tiết chế quân vụ Bắc Kỳ (chức vụ quân sự cao nhất ở Bắc Kỳ) để chỉ huy, đôn đốc việc phòng thủ chống Pháp. Ở chức vụ này, ông đã chỉ huy quân dân Hà Nội phối hợp với quân Cờ Đen đánh thắng cuộc tấn công của Pháp vào thành Hà Nội, giết chết tên chỉ huy Pháp F.Garnier. Mười năm sau, ngày 19-5-1883, Hoàng Kế Viêm lại chỉ huy quân dân Hà Nội đập tan cuộc tấn công của quân Pháp ở Cầu Giấy, bắn chết tên trung tá chỉ huy H.Riviere. Năm 1887, ông được thăng chức Thái tử Thiếu bảo, Cơ mật Viện Đại thần. Ngoài tài năng về quân sự, Hoàng Kế Viêm còn là người hay chữ: làm thơ, viết văn, viết sử. Những tác phẩm của ông bằng Hán Nôm với bút danh Tùng An khá đa dạng và phong phú như: Trù Thiết sơn phòng sư Nhị tấn (tổng kết việc củng cố an ninh vùng biên cương kết hợp với khai hoang và tăng gia sản xuất), Thần cơ yếu ngữ (sách giáo khoa cho bộ binh nói về cách sử dụng các loại vũ khí mới, cách bắn súng, bảo quản vũ khí có tranh vẽ minh họa và các bài tập), Hoàng Triều Văn Vũ thế tắc lệ (Những phép tắc cho các trường thi võ), Phê thị trần hoàn (ghi chép về đời vua Tự Đức), Tiên công sự tích biệt lục (ghi lại thân thế và sự nghiệp của cha ông)... Sau khi mất, ông được vua Duy Tân truy tặng hai chữ “Văn Nghị " có nghĩa là bạn của văn chương. Người dân địa phương truyền tụng về Hoàng Kế Viêm rằng, khi về hưu, vua ban cho ông 4 mẫu ruộng nhất đẳng điền tùy ý chọn nhưng ông chỉ chọn 4 mẫu đất cỏ hoang mà người làng Thế Lại dùng để nuôi trâu bò rồi ông vận động con cháu trong họ cùng dân làng đi khẩn hoang một vùng đất khác cạnh đó thành đồng ruộng hai mùa tươi tốt. Nhân dân gọi đó là đồng cồn Hoàng ngàn mùa không mất. Ruộng khai phá xong, ông chia đều cho mọi người cày cấy. Biết ơn ông, dân làng đã lập một đền thờ Thổ công tại cánh đồng để hàng năm cúng tế. Ngày khai trương đền thờ, người dân thắp hương, đèn cúng khấn nhưng hương không cháy, đèn không đỏ, họ lấy làm kỳ lạ, hoảng sợ họ phải cho người về mời rước ông lên cúng. Từ đó về sau, đến kỳ cúng bái không còn xảy ra chuyện như vậy nữa nên dân làng xem ông còn to hơn cả Thổ thần. Khuôn viên lăng mộ Hoàng Kế Viêm có diện tích hơn 230m2, bao gồm: cổng, sân, hàng rào, bia mộ, hồ bán nguyệt và mộ. Phần mộ được xây bằng xi măng theo h́ình chữ nhật, phía trên mộ đắp nổi h́ình 7 lá sen chồng lên nhau tượng trưng cho sự thanh bạch, tấm lòng trong sáng như cuộc đời của ông. Nhà thờ được xây dựng vào năm 1937 bằng gạch và lợp ngói âm dương. Kiến trúc của nhà thờ gồm ba gian, được bài trí theo hướng đông-nam, rộng khoảng 300m2. Năm 1967, nhà thờ đã bị đánh sập trong một đợt không kích của giặc Mỹ. Năm 1998, con cháu hậu duệ đã đóng góp công, của xây dựng lại nhà thờ như hiện nay. Hàng năm, cứ đến ngày giỗ ông, con cháu trong dòng họ tập trung tại nhà thờ làm lễ dâng hương, cúng bái để tưởng nhớ công đức của ông. Với những ý nghĩa và giá trị lịch sử đó ngày 24/02/2023, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 396/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch về việc công nhận Di tích lịch sử Mộ và Nhà thờ Hoàng Kế Viêm ở xã Lương Ninh (huyện Quảng Ninh) là di tích Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 2936 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đền Cô Ba

Đền Cô Ba tọa lạc ở vị trí sơn thủy hữu tình, lưng tựa vào núi, mặt hướng ra dòng suối Nhù trong xanh, thuộc thôn Làng Đền, xã Phú Nhuận. Ngày nay, ở xã Phú Nhuận vẫn tương truyền sự tích về cô Ba. Vùng đất Phú Nhuận xưa kia có nàng công chúa tên là Ba xinh đẹp tuyệt trần, lại hay giúp đỡ dân lành. Nàng rất thạo việc sông nước nên thường dạy nhân dân trong vùng cách đi lại trên sông nước và cách đánh bắt thủy sản ở sông, suối, vì thế mà nàng được nhân dân trong vùng hết sức yêu mến và kính trọng. Sau khi nàng công chúa mất, người dân lập đền thờ phụng. Đền Cô Ba là điểm sinh hoạt văn hóa tâm linh quan trọng, gắn với đời sống tín ngưỡng của nhân dân các dân tộc xã Phú Nhuận, đã tồn tại hàng trăm năm. Hàng năm, người dân xã Phú Nhuận và các địa phương lân cận thường đến dâng hương, chiêm bái, cầu bình an. Với những giá trị lịch sử, văn hóa, đền Cô Ba đã được UBND tỉnh ra quyết định công nhận là di tích lịch sử, văn hóa cấp tỉnh để góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch; giáo dục truyền thống, đáp ứng nhu cầu tâm linh của nhân dân. Trong ngày đón nhận Bằng xếp hạng đã diễn ra nhiều hoạt động văn hóa tâm linh gắn với lễ hội thường niên vào ngày 7/7 âm lịch được tổ chức tại đền. Nhân dịp này, UBND huyện Bảo Thắng đã công bố chi tiết quy hoạch diện tích đền và kế hoạch phát triển khu di tích lịch sử đền Cô Ba trong thời gian tới. Đền Cô Ba là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh quan trọng, gắn với đời sống tín ngưỡng của nhân dân các dân tộc xã Phú Nhuận. Nguồn: Báo Lào Cai

Lào Cai 2766 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Tuyến đường đá cổ Pavie

Tuyến đường đá cổ Pavie có tuổi đời hơn 100 năm ở thôn Nhìu Cồ San, xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, đã được tỉnh Lào Cai xếp hạng là di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh. Ngày 11/12, tin từ Sở Văn hóa - Thể thao Lào Cai cho biết, UBND tỉnh này vừa ban hành Quyết định số 3130/QĐ-UBND, xếp hạng đường đá cổ Pavie ở thôn Nhìu Cồ San, xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát là di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh. Theo quyết định này, khu vực bảo vệ đường đá cổ Pavie được xác định theo biên bản khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích trong hồ sơ khoa học di tích. UBND tỉnh Lào Cai giao Sở Văn hóa - Thể thao, UBND huyện Bát Xát xây dựng phương án bảo vệ, quản lý, tu bổ và sử dụng di tích danh lam thắng cảnh đường đá cổ Pavie theo đúng quy định. Theo nhiều tài liệu và ghi chép, năm 1920, tuyến đường đá Pavie bắt đầu được xây dựng. Thống đốc Auguste Jean - Marie Pavie là người khảo sát và chỉ đạo xây dựng tuyến đường này để vận chuyển lương thực, nông sản giữa các tỉnh Tây Bắc của Việt Nam. Bởi vậy, tuyến đường được gọi tên là Pavie. Sau 7 năm, con đường được hoàn thành với tổng chiều dài khoảng 100km, vượt đèo Gió thuộc dãy Nhìu Cồ San, kéo dài từ huyện Bát Xát (tỉnh Lào Cai) tới thành phố Lai Châu (tỉnh Lai Châu) ngày nay. Tuy nhiên, theo người dân bản địa, từ trước khi người Pháp làm đường, cha ông họ đã chinh phục đỉnh Nhìu Cồ San bằng lối đi này và khai phá đến đất Lai Châu, người Pháp chỉ tiếp tục mượn tuyến đường của người Mông để vận chuyển. Tuyến đường đá cổ Pavie từng phục vụ cho việc vận chuyển hàng hóa, nông sản, vũ khí… từ Lào Cai sang Lai Châu thời kỳ Pháp thuộc. Theo thời gian, mặc dù bị cỏ cây mọc che bớt lối đi nhưng tuyến đường đá vẫn còn rộng chừng 3m và kéo dài hơn 20km xuyên qua những địa hình phức tạp. Sau hơn 100 năm gần như bị lãng quên, con đường đá cổ gần đây đã được khám phá trở lại và trở thành một trong hành trình khám phá thiên nhiên kỳ vĩ không thể bỏ qua của du khách khi đến với Lào Cai. NGUỒN: CƠ QUAN NGÔN LUẬN CỦA HỘI NHÀ BÁO VIỆT NAM

Lào Cai 2662 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đền Ngòi Bo

Đền Ngòi Bo nay thuộc xã Thống Nhất, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Hướng trông ra ngã ba sông – nơi giao thủy của suối Ngòi Bo và sông Hồng, ngôi đền là nơi thờ phụng Tản Viên Sơn Thánh – một trong Tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt, “là vị thần linh thiêng bậc nhất của trời Nam”. Theo lời kể của các bậc lão niên, những người quê gốc miền xuôi trong thôn khi đến đây và gắn bó với vùng đất này đã dựng miếu, đền thờ phụng Đức Thánh Tản Viên – vị Thánh được tôn thờ ở khắp vùng trung du và châu thổ Bắc Bộ với niềm tin kiền thành vào sự phù hộ, che chở của Ngài. Sự tin tưởng ấy chính là bệ đỡ, là điểm tựa tinh thần của những người con xa quê trên bước đường tạo dựng cuộc sống ở miền đất mới, đồng thời là sự nhắc nhớ, sự duy trì ký ức về quê hương bản quán, về nguồn cội cha ông. Lễ hội đền Ngòi Bo diễn ra vào ngày 11 tháng Giêng hằng năm. Đền Ngòi Bo được xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa cấp Tỉnh năm 2016./. NGUỒN: BAN QUẢN LÝ DI TÍCH THÀNH PHỐ LÀO CAI

Lào Cai 2463 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Điểm di tích nổi bật