Di tích lịch sử

Việt Nam

Di tích danh thắng Núi Đá Bia

Núi Đá Bia nằm trên dãy đèo Cả, phía nam huyện Đông Hòa. Núi cao 706m, phía đông liền với hòn Bà sát biển, chân núi phía tây là quốc lộ 1A, phía bắc liền với núi Đông Sơn, chân núi phía nam giáp Vũng Rô. Sườn núi Đá Bia rất dốc với nhiều tảng đá chồng chất lên nhau, cây cối um tùm, đường lên đỉnh khá vất vả. Trên đó một khối đá cao lớn gọi là Đá Bia. Tùy mỗi góc nhìn có thể thấy Đá Bia với những dáng vóc khác nhau. Tại đỉnh núi có độ dốc cao, thấy Đá Bia giống như con sư tử nằm xuôi theo sườn. Ở ngã ba Hảo Sơn - Đập Hàn nhìn lên, Đá Bia hao hao như tháp Nhạn. Từ Bãi Xép - Bãi Bàng (xã Hòa Tâm) trông vào, Đá Bia giống như người ngồi. Tại trường Hòa Tâm nhìn Đá Bia giống như một ông Phật đứng, cũng có thể nói là nhà sư đang xuống núi. Dưới chân núi có Bãi Tiên. Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quí Đôn viết: “Núi Đá Bia ở Phú Yên là chỗ tiền triều phân địa giới với Chiêm Thành, núi đến rất xa, tự đầu nguồn liên lạc đến bờ biển. Núi này cao hơn núi khác. Khi Thánh Tông đánh được Chiêm Thành lấy đất này vào xứ Quảng Nam, lập dòng dõi Chiêm Thành cũ, phong cho từ đất ấy trở về phía tây, tạc đỉnh núi lập bia làm địa giới, lưng xoay về phía bắc, mặt về phía nam, lâu ngày chữ đã mòn mất”. Sách Đại Nam nhất thống chí viết: “Xét sách thủy lục trình chí của Trần Công Hiến có đoạn chép rằng: Núi này có một chi chạy đến biển, chia hai dòng nước, cỏ cây cũng phân rẽ, có một hòn đá lớn quay đầu hướng đông như hình người. Khi vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành qua núi ấy, bùi ngùi than thở rằng: “Từ lúc trời đất sơ khai đã phân ranh giới, vì nghịch đạo trời nên phải chịu họa trời”. Nhân đó vua khiến chạm chữ trên đá. Việc vua Lê Thánh Tông có khắc chữ trên núi Đá Bia hay không? nhân dân vẫn xem đó là một huyền thoại, đánh dấu bước ngoặc lịch sử của vùng đất Phú Yên. Vì trong Đại Việt sử ký toàn thư có một đoạn nhật ký ghi cuộc nam chinh của vua như sau: “Ngày mùng một tháng 3 năm Tân Mão hạ thành Chà Bàn, ngày mồng 2 đã xuống chiếu lui quân”. Năm 1937, có cuộc khảo sát núi Đá Bia của tri phủ Tuy Hòa lúc ấy là Nguyễn Văn Thơ. Những năm gần đây có các cuộc khảo sát của thanh niên, sinh viên Phú Yên, họ cũng không tìm được một dấu tích nào cả. Núi Đá Bia (còn gọi là Thạch Bi Sơn) cao 706m, sừng sững uy nghi ở phía Bắc dãy Đèo Cả. Trên đỉnh núi là một khối đá khổng lồ cao 76m, có hình thù kỳ lạ, sáng sớm hay về chiều thường có mây trắng bao phủ chung quanh, khi ẩn khi hiện. Núi Đá Bia được công nhận di tích thắng cảnh cấp quốc gia năm 2008. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.

Đắk Lắk 2462 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Vịnh Xuân Đài

Vịnh Xuân Đài nằm cách Thành Phố Tuy Hòa khoảng 45km về phía bắc với một vùng non xanh nước biếc, sơn thủy hữu tình lại chứa đựng nhiều sự kiện lịch sử quan trọng liên quan đến vùng đất Phú Yên. Với diện tích hơn 13.000ha, vịnh Xuân Đài nằm trên địa bàn TX Sông Cầu và huyện Tuy An. Bao quanh vịnh là những dãy núi cao và cũng chính là một phần của dãy Trường Sơn đâm thẳng ra biển. Ở phía đông có bán đảo Xuân Thịnh bắt đầu từ đèo Vận Lương chạy về hướng đông - nam ôm lấy vịnh Xuân Đài. Vịnh Xuân Đài còn là một địa danh chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng gắn liền với tiến trình lịch sử 400 năm hình thành và phát triển của vùng đất Phú Yên. Vào cuối thế kỷ XVI, những người Việt đầu tiên theo ông Lương Văn Chánh vào Phú Yên đã chọn những vùng đất thuận lợi dọc các cửa sông, cửa biển để làm địa bàn sinh sống. Đó là các vùng Cù Mông, Bà Đài, Đà Diễn, Đà Nông. Một tài liệu có từ năm 1597, lưu giữ tại đền Lương Văn Chánh cho biết: “Lệnh Phù Nghĩa hầu (Lương Văn Chánh) dẫn đem những hộ dân mới tới đến các xứ Cù Mông, Bà Đài, Bà Diễn, Bà Nông, trên từ vùng sơn cước, dưới thì đến các cửa biển, cùng nhau lập nhà cửa, khai phá đất hoang thành ruộng vườn, trải qua 3 vụ thì nộp thuế như thường lệ”. Vùng Bà Đài lúc bấy giờ bao gồm vịnh Xuân Đài và hạ lưu sông Cái thuộc Tuy An hiện nay. Khu vực này vừa có diện tích canh tác màu mỡ nhờ phù sa sông Cái bồi đắp, lại vừa có vùng vịnh kín gió thuận lợi cho việc neo đậu tàu thuyền đánh bắt hải sản. Từ những điểm định cư đầu tiên, những lưu dân người Việt mở rộng địa bàn sinh sống, làm chủ cả vùng biển, đồng bằng và rừng núi rộng lớn phía tây, biến cả khu vực rộng lớn này trở nên trù phú, sầm uất. Đó cũng là cơ sở quan trọng để đến đầu thế kỷ XVII, khu vực vịnh Xuân Đài trở thành trung tâm hành chính của vùng đất Phú Yên. Vào năm 1629, thủ phủ của Phú Yên là thành Hội Phú được xây dựng tại cửa Tiên Châu ngay bên bờ vịnh Xuân Đài, địa điểm xây thành sử cũ ghi là có núi Xuân Đài gần kề rũ xuống. Trong thời kỳ giao tranh giữa nhà Tây Sơn với nhà Nguyễn, vịnh Xuân Đài đã trở thành chiến trường với nhiều trận thủy chiến lớn. Tháng 6/1775, sau khi quân Tây Sơn làm chủ đất Phú Yên, tướng của chúa Nguyễn là Tống Phước Hiệp chỉ huy đưa hơn hai vạn quân giành lại vùng đất này. Quân của Tống Phước Hiệp chủ yếu đồn trú tại khu vực thành Hội Phú và vịnh Xuân Đài. Để đối phó với quân của Tống Phước Hiệp, tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ lúc bấy giờ mới 23 tuổi đã đưa một đạo quân theo đường núi La Hiên kết hợp với lực lượng tại chỗ rồi bất ngờ đánh úp nên quân của Tống Phước Hiệp nhanh chóng tan rã, vịnh Xuân Đài lại trở thành một căn cứ thủy quân quan trọng của nhà Tây Sơn. Đến những năm cuối cùng của thế kỷ XVIII, khi lực lượng đã lớn mạnh, Nguyễn Ánh thường xuyên kéo quân theo đường thủy từ phía nam ra quấy nhiễu quân Tây Sơn và vịnh Xuân Đài trở thành chiến trường giao tranh ác liệt. Cuối thế kỷ XIX, cuộc khởi nghĩa hưởng ứng phong trào Cần Vương do Lê Thành Phương lãnh đạo nổ ra ở Phú Yên. Đến tháng 6/1897, quân viễn chinh dưới sự chỉ huy của Chevreux, Tirant và Trần Bá Lộc đã đổ bộ vào vịnh Xuân Đài để đàn áp cuộc khởi nghĩa. Căn cứ của nghĩa quân đóng ở vịnh Xuân Đài do Bùi Giảng chỉ huy bị thất thủ, hai tuần sau đó cuộc khởi nghĩa bị dập tắt. Tháng 4/1945 tàu hải quân của quân đội Nhật Hoàng tiến vào vịnh Xuân Đài đánh chiếm để làm bàn đạp tiến sâu vào đất liền, nhưng đã bị phi cơ Đồng Minh bắn chìm giữa vịnh. Thân tàu chìm khuất dưới làn nước sâu, chỉ còn nhô lên cột cờ tàu và đài quan sát. Cho đến những năm cuối thập niên 80 đầu 90 của thế kỷ XX vẫn còn dấu tích trong vịnh Xuân Đài. Vịnh Xuân Đài cũng là nơi diễn ra hoạt động ngoại giao đầu tiên giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Khu vực vịnh Xuân Đài còn là quê hương của danh nhân Đào Trí. Ông từng phục vụ dưới các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Đào Trí từng giữ các chức Tả quân Đô thống và Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội, Bắc Ninh). Cho đến nay, những sự kiện lịch sử đã lui dần vào quá khứ, nhưng những chứng tích về một thời hào hùng thì vẫn còn lưu dấu ở khu vực vịnh Xuân Đài. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, vịnh Xuân Đài giờ đây đang bước vào một thời kỳ phát triển mới, tương xứng với những thế mạnh vốn có của một di tích danh thắng quốc gia. Ngày 20/11/2011, Vịnh Xuân Đài Phú Yên được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.

Đắk Lắk 2293 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích Mộ và địa điểm đền thờ Đào Trí

Di tích Mộ và địa điểm đền thờ Đào Trí là chứng tích về một danh nhân lịch sử của vùng đất Phú Yên, đã tham gia vào các sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XIX. Đào Trí sinh năm 1799, mất năm 1879, tại Vũng Lắm, khu phố Tân Thạnh, phường Xuân Đài, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Ông xuất thân trong một gia đình ngư dân, chuyên sống bằng nghề chài lưới. Song với tư chất thông minh, trí dũng hơn người, ông đã trở thành một trong những vị quan võ cao cấp nhất trong hệ thống quân đội của nhà Nguyễn; lần lượt cả ba triều vua nhà Nguyễn là Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Năm Tự Đức thứ 21 (1868), Đào Trí được phong hàm Tả quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự. Đào Trí vừa là một võ quan với những chiến công lừng lẫy, vừa là vị đại thần có nhiều công lao trong việc cai trị, giáo hóa nhân dân, được vua Tự Đức hết lời khen ngợi, ban thưởng tấm kim bài với chữ “Vị đức, vị dân”, sai sử quan soạn bài văn bia ghi chép công đức lưu truyền…Đào Trí mất năm 80 tuổi (1878) tại quê nhà làng Tân Thạnh và được hậu duệ ông thờ phụng. Hiện nay, hậu duệ Đào Trí ở làng Tân Thạnh gần nhất là đời thứ 5, ông Đào Vạn là người lớn tuổi nhất. Mộ Đào Trí hiện nằm phía sau làng Tân Thạnh, trên sườn phía Đông Bắc núi Hòn Vung, có độ cao 20m so với mặt biển, cách Quốc lộ 1 A khoảng 300m. Mộ quay mặt về hướng Bắc, quy mô xây dựng bề thế, có cổng mộ và tường rào bao quanh, nấm mộ đắp hình voi phục, phía trước có án phong… Địa điểm đền thờ Đào Trí nằm trong khuôn viên nhà ông Đào Vạn, cách mộ khoảng 1km về phía Bắc. Đền thờ Đào Trí bị tàn phá bởi chiến tranh, dấu tích còn lại chỉ còn nền móng có diện tích 7,2 nhân 8 mét và án phong đắp nổi kỳ lân đã bị rêu phong phủ bóng thời gian… Với những giá trị đó ngày 02/07/2015 Di tích Mộ và địa điểm đền thờ Đào Trí đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia theo quyết định số 2247/Quyết Ðịnh -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.

Đắk Lắk 2527 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu danh thắng Bãi Môn - mũi Đại Lãnh

Danh thắng Bãi Môn - Mũi Đại Lãnh thuộc địa phận thôn Đồng Bé, xã Hoà Tâm, huyện Đông Hoà, tỉnh Phú Yên), cách thành phố Tuy Hoà (Phú Yên) khoảng 35km về phía đông nam. Đặc điểm: Đây là nơi hội tụ nhiều nét đẹp của thiên nhiên với rừng, biển, suối và núi đồi. Nơi đây còn có ngọn hải đăng tỏa sáng hàng đêm giúp tàu thuyền qua lại trên biển và vào vịnh Vũng Rô. Mũi Đại Lãnh được tạo ra nhờ dãy núi Đại Lãnh - một nhánh của dãy Trường Sơn, đâm ra biển Đông. Mũi Đại Lãnh do một tướng người Pháp tên là Varella phát hiện ra vào cuối thế kỷ 19. Varella đã nhận thấy vai trò quan trọng của Mũi Đại Lãnh trên hải đồ quốc tế. Chính vì vậy, trên bản đồ cũ nó được gọi là Cap Varella (Mũi Varella). Điểm đặc biệt của Mũi Đại Lãnh là trông nó như một ngọn núi lại như một hòn đảo vì có một con suối nước ngọt tách nó ra khỏi đất liền nhưng thực chất nó lại liền đất liền. Phong cảnh ở núi Đại Lãnh từ xưa đã được liệt vào hàng những danh lam thắng cảnh đẹp của Việt Nam. Năm 1836, vua Minh Mạng đã cho thể hiện hình tượng núi Đại Lãnh vào Tuyên đỉnh - một trong 9 chiếc đỉnh đồng đặt tại Thế Miếu trong đại nội Kinh thành Huế (Thừa Thiên – Huế). Năm 1853, dưới triều vua Tự Đức, Đại Lãnh có tên trong từ điển quốc gia do triều đình biên soạn. Người dân địa phương còn gọi Mũi Đại Lãnh là Mũi Điện, vì trên đỉnh có ngọn hải đăng cao khoảng 26m, ở độ cao hơn 100m so với mặt nước biển và có thể phát tín hiệu ánh sáng đi xa 27 hải lý. Ngọn hải đăng có hình trụ tròn với đường kính trung bình gần 5m, bên trong trụ được lắp đặt 108 bậc cầu thang xoắn ốc bằng gỗ lên tận đỉnh. Đây là một trong 8 ngọn hải đăng có niên đại trên 100 năm trong tổng số 79 ngọn hải đăng đang hoạt động tại nước ta. Ngọn hải đăng được người Pháp xây dựng vào năm 1890 với mục đích định hướng cho tàu thuyền hoạt động trên biển và vào vịnh Vũng Rô. Ngọn đèn biển hoạt động được 55 năm thì ngừng và đến năm 1961, nó được chính quyền Sài Gòn trước đây khôi phục hoạt động trở lại. Tuy nhiên, ngọn hải đăng hoạt động chưa được bao lâu thì phải tạm dừng bởi Mũi Đại Lãnh nằm trong khu vực căn cứ Miền Đông của cách mạng, là hành lang đón các con tàu không số. Để ngăn chặn tuyến đường tiếp tế trên biển của cách mạng vào Vũng Rô, Mỹ đã ném bom dày đặc vào núi rừng khu vực vịnh Vũng Rô, phá hủy cả trạm hải đăng. Tháng 8/1996, Nhà nước đã cho sửa chữa, tu bổ và ngọn hải đăng chính thức hoạt động trở lại vào năm 1997. Dưới chân Mũi Đại Lãnh là Bãi Môn. Đây là một bãi biển vẫn còn khá hoang sơ, có hình vầng trăng khuyết với đường bờ biển dài khoảng 400m, độ dốc thoai thoải, cát trắng mịn, nước trong vắt như pha lê. Ở phía tây của Bãi Môn có một con suối nước ngọt. Sau khi len lỏi qua nhiều vách đá và khu rừng nguyên sinh Bắc Đèo Cả, con suối này chảy ngang qua bãi tắm rồi đổ ra đại dương mênh mông. Sự phối hợp tinh tế giữa thiên nhiên và con người tại Mũi Đại Lãnh - Bãi Môn đã tạo nên một quần thể danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp được nhiều tạp chí trong nước và quốc tế biết đến, thực sự là tài sản quý giá của tỉnh Phú Yên. Tháng 8/2008, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ra Quyết định số 67/2008/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch, xếp hạng danh lam thắng cảnh Bãi Môn - Mũi Đại Lãnh (Mũi Điện) là di tích cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.

Đắk Lắk 2302 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đầm Ô Loan

Đầm Ô Loan nằm sát quốc lộ 1A, dưới chân đèo Quán Cau, cách thành phố Tuy Hòa 22km. Đây là một địa danh gắn với phong trào Cần Vương của tỉnh Phú Yên. Đầm Ô Loan rộng khoảng 1.200 ha. Đứng trên đèo Quán Cau nhìn xuống, Ô Loan giống như con phượng đang xòe cánh, còn trên bản đồ, Ô Loan giống như con thiên nga đang thong thả bay. Phía tây đầm Ô Loan là những quả đồi nhỏ nằm san sát nhau. Phía đông là mả Cao Biền. Dân gian cho rằng trên đường đi ếm hại nhân tài nước Nam , Cao Biền đã bị trời chôn tại đây. Cao Biền chết tại Đồng Môn Trên Sơn dưới Thủy, trời chôn Cao Biền. Thật ra, đây không phải là mả mà là một cồn cát. Tuy nằm sát biển, sóng gió vô chừng nhưng nhờ có một luồng gió xoáy mang cát bồi đắp, nên không khi nào mả bị sụp xuống thấp. Ô Loan là một đầm nước lợ, gần như nằm trọn trong đất liền, có món đặc sản là sò huyết. Dưới thời phong kiến, các quan lại khi về Phú Yên thường ra đầm Ô Loan thưởng ngoạn phong cảnh và thưởng thức món sò huyết. Món đặc sản khác ở Ô Loan là hàu. Tản Đà (Nguyễn Khắc Hiếu) nhà thơ nổi tiếng sành ăn đã từng đi khắp nước, ăn khắp nơi, đến Phú Yên nếm món ngon vật lạ cũng khen rằng: “Phú Câu cước cá, Ô Loan miếng hàu”. Hàu sống dựa vào các tảng đá ngập mặn, có cạnh rất sắc. Hàu dùng để nấu cháo, nấu canh, xào, nhưng ngon và hấp dẫn nhất là món hàu tái hoặc hàu trộn với đậu phụng và cà chua. Món ngon vật lạ ở Ô Loan còn có cua đế, còn gọi là huỳnh đế hay hoàng đế. Mai cua hoàng đế màu đỏ hoặc vàng đậm, ngay khi cua còn sống ở dưới nước, đằng sau có một chùm lông vàng, ngắn. Đặc biệt, loài cua này không bò ngang mà bò tới, vì càng và que đều mọc ở đằng trước đầu. Ngoài ra, Ô Loan còn có tôm rằn, tôm bạc, mực, sứa, rau câu, điệp. Giữa đầm có hai tảng đá lớn chồng lên nhau gọi là hòn Chồng. Phong cảnh non xanh nước biếc của Ô Loan là nguồn cảm hứng vô tận cho các thi sĩ sáng tác. Nhà thơ Nguyễn Mỹ viết: Biển vào Ô Loan nằm ngủ thiếp Sò huyết sinh trong đáy giếng mờ xanh. Thi sĩ Xuân Diệu đã viết bài thơ đầm Ô Loan: Đầm Ô Loan, đầm Ô Loan. Nước trời cùng với mây liên hoàn Mặt đầm, đôi cánh chim loan mở Khí mát lan bay sắc đẹp tràn Cao thấp đồi quanh gấm dựng lên Lục thêu cùng biếc với xanh lam Sắn khoai sức tốt phây phây lượn Mía bắp trông xa một sắc liền.... Hàng năm đến ngày mùng 7 tháng giêng âm lịch, lễ hội cầu ngư của ngư dân vùng đầm Ô Loan được tổ chức. Hàng vạn người từ khắp nơi về tham dự. Đây là một nét đẹp của văn hóa dân gian truyền thống Phú Yên. Đầm Ô Loan đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích danh thắng quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.

Đắk Lắk 2349 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đập Đồng Cam.

Công trình Đập Đồng Cam nằm trên sông Ba thuộc thôn Phong Hậu, xã Hòa Hội, huyện Phú Hòa (phía bờ Bắc) và thôn Thành An thuộc xã Sơn Thành Đông, huyện Tây Hòa (phía bờ Nam), được chính thức khởi công xây dựng vào năm 1924 và được khánh thành vào ngày 07/9/1932, gồm hệ thống công trình đầu mối và mương dẫn thủy. Khi có hệ thống thủy nông Đồng Cam, toàn bộ sản xuất nông nghiệp ở đồng bằng Tuy Hòa có bước phát triển nhảy vọt. Từ một vùng đồng bằng chỉ sản xuất một vụ bấp bênh trở thành một vùng đồng bằng trù phú với 2 đến 3 vụ lúa, năng suất cao, đem lại đời sống ấm no hạnh phúc cho người dân Phú Yên. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, chính nhờ công trình này mà đồng bằng Tuy Hoà được ví như “dạ dày kháng chiến” của vùng tự do Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Thực dân Pháp đã dùng nhiều thủ đoạn để phá hủy hệ thống thủy nông này nhưng quân và dân Phú Yên đã anh dũng “bẻ gãy” cuộc càn quét quy mô của địch tạo nên trận Sông Ba - Trường Lạc nổi tiếng; bảo vệ vững chắc đập đầu mối Đồng Cam và các công trình xung yếu. Từ lâu, hệ thống thuỷ nông Đồng Cam đã được xem là “mạch sống quê hương” ăn sâu vào ký ức của người dân ở Phú Yên. Cho đến nay, Đập Đồng Cam vẫn được xem là hình mẫu về kỹ thuật xây dựng công trình thuỷ nông phục vụ sản xuất nông nghiệp. Không chỉ thế, Đập Đồng Cam là một danh lam thắng cảnh nổi bật trên sông Ba. Những yếu tố tự nhiên trên đây đã làm cho khu vực đập Đồng Cam là một trong những nơi có phong cảnh thiên nhiên hữu tình, hấp dẫn của Phú Yên. Đã thành truyền thống, ngày mùng 8 tháng Giêng, hàng vạn người nô nức về dâng hương, tham gia lễ hội Đập Đồng Cam để tôn vinh, tưởng nhớ những người đã góp công sức, xương máu để xây dựng nên công trình này, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và cảnh quan thiên nhiên vô cùng ý nghĩa đó, Đập Đồng Cam đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích quốc gia danh lam thắng cảnh tại Quyết định số 2085 ngày 05/9/2022. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.

Đắk Lắk 2326 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Quần thể Hòn Yến

Theo nguồn tin từ Cục Di sản Văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), danh lam thắng cảnh Quần thể Hòn Yến (xã An Hòa, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên) vừa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích cấp quốc gia. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đề nghị Uỷ Ban Nhân Dân các cấp nơi có di tích được xếp hạng thực hiện việc quản lý nhà nước đối với di tích theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Danh lam thắng cảnh Quần thể Hòn Yến là khu vực bao gồm Hòn Yến, Hòn Đụn (Hòn Sắt), Bàn Than, Gành Yến, Hòn Choi, Vũng Choi tạo thành một quần thể thắng cảnh tự nhiên bên bờ biển. Trong đó, Hòn Yến là điểm nhấn nổi bật của quần thể thắng cảnh này. Theo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Yên, đây là danh thắng rất có giá trị tự nhiên từ địa chất đến hệ động thực vật, đa dạng sinh học; có giá trị về văn hóa, lịch sử; có tiềm năng phát triển du lịch ven biển hấp dẫn. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.

Đắk Lắk 2309 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Gành Đá Đĩa

Ngày 31/12, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam đã ký Quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (đợt 11 năm 2020) cho 07 di tích, trong đó có danh lam thắng cảnh Gành Đá Đĩa, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Gành Đá Đĩa là một danh thắng thiên nhiên kỳ thú về cảnh quan và độc đáo về địa chất ở Việt Nam, thắng cảnh này nằm tại xã An Ninh Đông, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Là một tập hợp các trụ đá hình lăng trụ xếp liền nhau, hòn nọ nối hòn kia kề với sóng nước. Bãi đá trải rộng san sát nhau chung màu đen huyền bí. Có trụ thẳng đứng, có trụ nghiêng vẹo nhưng vẫn chồng chất tầng tầng trông như chồng bát đĩa nên có tên gọi là Gành Đá Đĩa. Nhìn từ xa, Gành đá trông giống một tổ ong thiên tạo khổng lồ vô cùng kỳ vĩ. Các cột đá badan của Gành Đá Đĩa được các nhà nghiên cứu cho là hình thành cách đây hàng triệu năm, khi các dòng nham thạch nóng chảy phun ra từ các núi lửa ở cao nguyên Vân Hoà (cách 30km) gặp nước biển lạnh nên đông cứng và nứt vỡ mà thành. Gành Đá Đĩa là một trong những danh thắng cảnh hấp dẫn bậc nhất ở nước ta, được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Thắng cảnh Quốc gia vào năm 2005. Mỗi năm có hàng vạn du khách đến tham quan chiêm ngưỡng thắng cảnh này. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.

Đắk Lắk 2265 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia đặc biệt. Mở cửa

Mộ Đào Tấn

Đào Tấn (Đào Đăng Tiến, Đào Tiến), tự Chỉ Thúc, hiệu Mộng Mai, Mai Tăng, sinh năm Ất Tỵ (năm 1845). Ông quê làng Vinh Thạnh, phủ Tuy Phước, nay thuộc thôn Vinh Thạnh, xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Ông đậu cử nhân năm Đinh Mùi (năm 1867), 4 năm sau, vua Tự Đức mời ông vào Hiệu Thư triều đình Huế, chuyên soạn các vở tuồng theo lệnh nhà vua. Năm Giáp Thìn (năm 1904), ông về hưu sau khi giữ chức Thượng Thư Bộ Công. Ông là người yêu nước nổi tiếng thanh liêm, đồng thời là nhà thơ, nhà biên soạn và đạo diễn tuồng xuất sắc của Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Với những đóng góp to lớn, Đào Tấn được suy tôn là “Hậu Tổ” của nghệ thuật tuồng Việt Nam. Mộ Đào Tấn được khởi dựng sau khi ông qua đời tại quê nhà ngày 15.7.1907 (năm Thành Thái thứ 19) theo nghi lễ Quốc Triều. Mộ của ông toạ lạc trên núi Huỳnh Mai (Hoàng Mai) thuộc thôn Huỳnh Mai, xã Phước Nghĩa, huyện Tuy Phước, cách thành phố quy Nhơn 15 km. Mộ nhìn về hướng nam, hướng về ngôi làng nơi ông từng sinh sống. Mộ Đào Tấn dài 3 mét, rộng 2 mét, trước mộ có bia ghi thời điểm lập mộ và bình phong che chắn. Xung quanh mộ là khuôn viên hình chữ nhật được bo tròn, trước có trụ cổng, lưng có bình phong mang hình cuốn thư. Trước và sau ngôi mộ có 4 con sư tử đứng chầu, đuôi vểnh lên trên, mặt nhìn ra hướng chính diện. Di tích này đã được Bộ Văn hoá – thông tin xếp hạng ngày 24.1.1998. Năm 1994, Sở Văn hoá – Thông tin Bình Định phối hợp với Uỷ Ban Nhân Dân huyện Tuy Phước cùng với xã Phước Nghĩa tiến hành gia cố, trùng tu mộ Đào Tấn dựa trên nguyên bản. Ngày nay, di tích mộ Đào Tấn là địa điểm tham quan của du khách gần xa mến mộ người nghệ sĩ đã có nhiều cống hiến cho nghệ thuật, nơi dâng hương tưởng nhớ danh nhân tài hoa của đất nước do ngành Văn hoá – Thông tin tỉnh và Uỷ Ban Nhân Dân huyện Tuy Phước tổ chức ngày 15.7 âm lịch hàng năm. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.

Gia Lai 2341 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Nhạn Sơn

Chùa Nhạn Sơn tục gọi là chùa Ông Đá, thuộc địa phận thôn Bắc Nhạn Tháp, xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, cách thành phố Quy Nhơn 23km về phía Tây Bắc. Ngôi chùa nằm dưới bóng một vườn xoài, lưng dựa vào núi Long Cốt, phía trước là Hồ Sen với cảnh trí thơ mộng. Chùa Nhạn Sơn có giá trị lớn về lịch sử và nghệ thuật, là sự giao thua giữa văn hoá Chăm bản địa và văn hoá Việt mà đặc biệt hơn cả là hai pho tượng bằng đá sa thạch khổng lồ thờ bên trong khuôn viên chùa - một phong cảnh điêu khắc Chăm. Đây là hai tượng Dvarapalla( Môn Thần) với ý nghĩa người bảo vệ cho đạo pháp, đứng đối xứng nhau 2,3m rất sống động. Nghệ thuật điêu khắc mang phong cách điển hình của nghệ thuật điêu khắc Chămpa thế kỷ XII, XIII. Hai tượng đá được sơn đen, đỏ tượng trưng cho ông thiện và ông ác trong tín ngưỡng của người Việt. Năm 2011, ngôi chùa này được Bộ Văn hóa - Thể Thao và Du lịch xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật; nơi lưu giữ hai tượng môn thần - tác phẩm điêu khắc Chăm thế kỉ XIII. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.

Gia Lai 2364 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa