Vịnh Vĩnh Hy nằm trên địa bàn xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận. Vĩnh Hy có nghĩa là mong muốn việc buôn bán sầm uất, náo nhiệt với nhiều cơ hội, nhiều may mắn, hướng về 1 cuộc sống an hòa, vui vẻ, bình yên. Vịnh Vĩnh Hy còn có tên gọi khác là Vũng Căng và Vũng Găng. Vịnh Vĩnh Hy cách trung tâm thành phố Phan Rang – Tháp Chàm khoảng 42km về phía Đông Bắc. Địa danh này là một trong những điểm đến thu hút đông đảo khách du lịch và được Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận đưa vào đề án “Xây dựng và phát triển tuyến du lịch trọng điểm tỉnh Ninh Thuận” bao gồm: Làng nghề gốm Bàu Trúc, dệt Mỹ Nghiệp, tháp Pô Klong Garai, vườn nho Thái An và vịnh Vĩnh Hy. Vịnh Vĩnh Hy là một danh thắng đã được Tổ chức kỷ lục Việt Nam xác lập vào top 10 vịnh đẹp nhất của Việt Nam, nằm trong Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Từ bến tàu Vĩnh Hy đi theo hướng trái khoảng 5 phút đường biển, đầu tiên sẽ gặp Bãi Cóc trong và ngoài liền kề nhau. Đây là một bãi đá nổi lên mặt nước với hình dáng của 1 con cóc là “Cậu ông trời”. Tiếp đến là mũi Cá Voi hay còn gọi là mũi Tây Sa, là hình ảnh của một chú cá voi khổng lồ nhô lên mặt nước, hướng về phía biển như trấn giữ, che chở một cách thầm lặng nhằm mang lại sự bình yên cho vùng biển, vùng đất Vĩnh Hy. Đây là tác phẩm của thiên nhiên, là sự kiến tạo của đá núi và biển khơi, nhưng với người dân Vĩnh Hy, nó còn mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc. Vì cá voi hay cá ông được vua triều Nguyễn ban sắc phong với danh hiệu là Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân tôn thần và người dân nơi đây luôn tôn kính loài cá Ông vì đã có công lao che chở, bảo vệ và đem lại may mắn cho những vụ mùa bội thu. Tiếp đến là Hòn Tai, rồi đến Đá Cột Buồm, Hòn Quy được thiên nhiên tạo ra trên vùng biển Vĩnh Hy.Tiếp theo về phía hướng tay phải, điểm dừng chân đầu tiên sẽ là Bãi Bà Điên, Hòn Gan (còn gọi là Hòn Sư tử) - là những bãi tắm đẹp, sản phẩm của thiên nhiên ban tặng cho vịnh Vĩnh Hy, với bãi cát mịn trắng, nước biển trong xanh là điểm dừng chân lý tưởng của du khách khi đến thăm quan vịnh. Tiếp đến là địa điểm Đá Robot với những phiến đá ngang, dọc nằm chồng lên nhau tạo nên hình dáng robot. Điểm đến tiếp theo trên vịnh chính là Hang Yến, là nơi cư ngụ của loài chim yến và cũng là điểm nhấn riêng của vịnh Vĩnh Hy. Hang được tạo thành bởi những khối đá đa dạng về kích cỡ, phong phú về hình thái, vừa gồ ghề, vừa không kém phần sinh động, tạo ra một bức tranh đầy màu sắc sinh được pha phối một cách ngẫu hứng. Tiếp sau là Gành Đen, Bãi Hỏm, Bãi Kinh, mũi Đá Vách… hình ảnh những mỏm núi đang vươn ra biển. Khí hậu nơi đây là nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình năm khoảng 27 độ C, độ ẩm trung bình 71%, vịnh tập trung nhiều loài cá, tôm, đồi mồi, víc,…và đặc biệt có nhiều rạn san hô tuyệt đẹp. Nằm ngay sát vịnh khoảng 10m còn có 1 công trình kiến trúc Lăng Thần Nam Hải thôn Vĩnh Hy, được xây dựng bằng xi măng cốt thép kiên cố. Lăng có diện tích 1.016m2, chiều dài lăng 36m, rộng 28m gồm các công trình: cổng lăng, án phong, cột cờ, sân võ ca, nhà chánh bái, nhà tiền hiền, nhà kho, nhà bếp, miếu thủy long. Với những giá trị về thẩm mỹ nêu trên, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng vịnh Vĩnh Hy là Danh lam thắng cảnh quốc gia tại Quyết định số 44/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 07/01/2020. Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa.
Khánh Hòa 2337 lượt xem
Chùa Ông có diện tích xây dựng 400 mét vuông tọa lạc tại phường Kinh Dinh, Thành phố Phan Rang- Tháp Chàm. Đây là cơ sở thờ Đức Quan Thánh của cộng đồng người Hoa có kiến trúc đặc sắc phản ảnh đỉnh cao kỹ năng xây dựng đình chùa của cư dân địa phương vào cuối thế kỷ XIX. Chùa Ông được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp Bằng xếp hạng di tích Quốc gia vào ngày 14/4/2011. Ông Hàng Thái Châu, Trưởng Ban quản lý di tích Chùa Ông cho biết, theo các bia ký tại chùa cho thấy đồng bào Hoa từ các tỉnh Phúc Kiến, Triều Châu di dân đến Ninh Thuận vào đầu thế kỷ XIX. Năm 1831, bà con lập miếu thờ ngài Quan Công biểu thị lòng trung nghĩa nhằm mục đích động viên cộng đồng Hoa kiều đoàn kết, trung thực, hiếu nghĩa. Ngôi miếu xây cất nhỏ nằm ven đường thiên lý Bắc Nam rất thuận lợi cho việc đi lại giao lưu của cộng đồng Hoa kiều. Đến năm 1909, Chùa Ông chính thức được trùng tu xây dựng có quy mô lớn mang đậm văn hóa tín ngưỡng của đồng bào Hoa tồn tại đến ngày nay. Chùa Ông xây cất theo hình chữ Tam gồm có ba gian: Gian thánh điện thờ Quan Công; gian bái đình có khoảng sân rộng cho nhân dân đến cúng bái; gian hội quán làm nơi trao đổi của cộng đồng Hoa kiều. Hệ thống cột cái, đòn dông, vĩ kèo được chạm khắc tinh xảo, phản ảnh đỉnh cao trong nghệ thuật kiến trúc đình chùa vào cuối thế kỷ XIX. Trên nóc chùa được trang trí hình tượng lưỡng long tranh châu; các mái được chạm khắc lân, phụng, hoa lá đường nét sinh động, sắc màu tươi thắm. Chùa Ông còn lưu trữ nhiều vật dụng thờ cúng cổ có giá trị về nghệ thuật đúc đồng, gốm sứ, liễn thờ. Và bốn sắc phong của các đời vua Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh. Chùa Ông diễn ra các hoạt động tế lễ hàng năm vào các ngày 13 tháng Giêng âm lịch cúng “ Đào viên kết nghĩa”; ngày 13 tháng năm âm lịch vía Quan Bình; ngày 24 tháng sáu vía Ngài Quan Thánh. Đặc biệt vào đêm Giao thừa, người Hoa địa phương đến thắp hương cầu mong quốc thái dân an, gia đình làm ăn thịnh vượng trong năm mới. Chùa Ông có kiến trúc đẹp nằm giữa trung tâm Tp. Phan Rang- Tháp Chàm là điểm đến tham quan của du khách . Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận
Khánh Hòa 2268 lượt xem
Tháp Pô Klong Garai (còn được gọi là Tháp Pô Klông Giarai, tháp Pô Klaung Garai, PoKlaun Garai, tháp Bửu Sơn), thuộc phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Theo truyền thuyết của người Chăm, tháp Pô Klaung Garai được Chế Mân (vua Jaya Simhavarman III) cho xây dựng để thờ Pô Klaung Garai - vị vua có nhiều công trạng đối với người Chăm trong việc chống giặc ngoại xâm, khai mương, đắp đập làm cho ruộng đồng tươi tốt… Chính vì lẽ đó mà ông đã được người Chăm coi như một vị vua - tối thượng thần (Shiva) và được thờ phụng trong tháp Pô Klong Garai đến nay. Tháp Pô Klong Garai gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của Panduranga - vùng đất cực Nam của vương quốc Chămpa xưa, nay thuộc địa bàn các tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Dựa trên bia ký, phong cách kiến trúc, nghệ thuật trang trí, cùng hiện vật gắn với di tích và một số tư liệu khác…, có thể tin rằng, tại vị trí đền tháp hiện nay từng có một đền tháp thờ Siva (?), được xây dựng từ thế kỷ XI, sau đó được chuyển hóa thành tháp thờ vua Pô Klong Garai (kết hợp với Siva). Tức là, tháp Pô Klong Garai hiện nay có thể được xây dựng trên nền móng hoặc được tu bổ, tôn tạo trên cơ sở của một ngôi tháp cũ vào khoảng cuối thế kỷ XIII - đầu thế kỷ XIV. Đây là một vấn đề hết sức lý thú, cần được tiếp tục nghiên cứu và giải mã. Tuy nhiên, với đối tượng chính là tháp Pô Klong Garai gắn với chức năng thờ Pô Klong Garai, chúng tôi tạm xác định, ngôi tháp hiện nay có niên đại vào khoảng cuối thế kỷ XIII - đầu thế kỷ XIV. Di tích tọa lạc trên khu đất có tổng diện tích 86.969,3m2 (khu vực bảo vệ I: 1.571,5m2, khu vực bảo vệ: II 8.5397,8m2). Trong phạm vi di tích hiện nay, ngoài các hạng mục sân, vườn, tường rào, đường nội bộ, cổng (cổng vào di tích và cổng phía Đông), tổ hợp công trình phục vụ du lịch - văn hóa, kiến trúc phụ trợ, miếu thờ, phế tích kiến trúc…, còn 3 kiến trúc gốc tương đối hoàn chỉnh, gồm tháp trung tâm (KaLan), tháp cổng (Gopura) và tháp nhà. 1.Tháp trung tâm (KaLan) : Là tháp thờ chính, được xây dựng trên vị trí trung tâm ngọn đồi, có quy mô lớn nhất, cao trên 20m, bình đồ mặt bằng hình vuông, kích thước 10,5 x 10,5 mét. 2. Tháp cổng (Gopura) : Tháp có mặt bằng hình vuông và là hình ảnh thu nhỏ của tháp chính, cao khoảng 10m, nằm ở phía Đông tháp thờ chính, mở hai cửa theo hướng Đông Tây đồng trục với cửa ra vào lòng tháp thờ. 3. Tháp nhà : Được xây dựng phía trước tháp thờ, nằm xế về phía Đông - Nam, là tháp chứa đồ thờ trong nghi lễ hay còn cho là tháp thờ thần Hỏa (thần lửa Anhi). Tháp có mặt bằng hình chữ nhật, quay hướng Đông - Tây, dài 8m, rộng 4m, cao gần 10m. Lòng tháp chia làm hai phòng, mở ba cửa, hai cửa thông nhau theo trục Bắc - Nam và một cửa quay về hướng Đông. Tại di tích, hằng năm diễn ra nhiều sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng và khách thập phương, nhưng nổi bật và thu hút được sự quan tâm đặc biệt, chính là lễ Katê - Tết của người Chăm theo đạo Bàlamôn, với nhiều nghi lễ và trò diễn đặc trưng của người Chăm. Hiện chưa tư liệu nào khẳng định, lễ hội Katê/T ết Katê của người Chăm ở nước ta xuất hiện từ khi nào, nhưng chỉ biết rằng, lễ này thường được đồng bào Chăm theo đạo Bàlamôn tại 2 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận tổ chức hằng năm vào ngày 30/6, 01/7 đến 10/7 theo lịch Chăm, tương ứng với khoảng thời gian vào tháng 9, 10 hoặc tháng 11 (Dương lịch), với ngày đầu tiên ở trên các đền - tháp; ngày thứ hai ở ngôi nhà chung của làng; ngày thứ ba ở nhà cả sư; từ ngày thứ tư đến hết ngày 10/7 lịch Chăm, thường dành cho các hộ gia đình. Với những giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích kiến trúc nghệ thuật Tháp Pô Klong Garai (thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 2499/Quyết Định -Thủ Tướng ngày 22/12/2016)./. Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa.
Khánh Hòa 2316 lượt xem
Danh lam thắng cảnh Mũi Đôi – Hòn Đôi (Hòn Đầu) ở bán đảo Hòn Gốm, thuộc xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh, nơi đón ánh bình minh trên đất liền đầu tiên của Tổ quốc. Mũi Đôi – Hòn Đôi (Hòn Đầu) có hai mũi đất liền nhô ra biển, mũi xa nhất nằm ở toạ độ khoảng 109028’0" kinh độ Đông và 12039’0" vĩ độ Bắc. Người dân địa phương thường gọi là Mũi Đôi và cách đó khoảng 500 mét, có một đảo nhỏ rộng khoảng 20.000 m2 là Hòn Đầu. Địa danh Mũi Đôi – Hòn Đầu được người dân Khánh Hoà biết đến nhiều hơn vào dịp lễ hội Festival biển Nha Trang năm 2005, khi cùng với vịnh Nha Trang được Bộ Văn hoá – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch) xếp hạng Danh lam thắng cảnh Quốc gia ngày 25/3/2005. Nhờ cấu tạo địa chất, những nhánh núi phía Nam Trường Sơn vươn xa ra biển Đông bị nước biển phủ kín nên vùng biển Khánh Hòa xuất hiện nhiều đảo lớn nhỏ, tạo thành nhiều đầm, vịnh. Bờ biển Khánh Hòa đa phần là vách đá chiếm 2/3, còn lại là bờ biển cát mịn. Do vậy, chính sóng biển từ biển Đông tràn vào đã xâm thực, bào mòn núi đá và thềm lục địa, tạo cho vùng bờ biển Khánh Hòa nhiều vách núi đá, gành đá rất hùng vĩ, đầy ấn tượng và những bãi biển xinh đẹp, đầy thơ mộng. Trong số đó, cảnh đẹp vùng biển bán đảo Hòn Gốm, có danh thắng quốc gia Mũi Đôi – Hòn Đôi (Hòn Đầu) là một điển hình. Đứng ở đây, ta có thể nhìn thấy tàu thuyền qua lại trên hải phận quốc tế. Nếu có dịp đến nơi Mũi Đôi – Hòn Đôi (Hòn Đầu), trú lại qua đêm để đón chờ bình minh ló dạng trên biển Đông mênh mông thì mới cảm nhận trọn vẹn cảnh đẹp của địa danh này. Cảnh sắc nơi đây có môi trường thiên nhiên còn nguyên sơ, trong lành, có chỗ như chưa có dấu chân người. Biển trời một màu xanh ngắt mênh mông bát ngát. Mắt thường có thể nhìn thấy ở độ sâu dưới biển cả chục mét. Lác đác, vài ba chiếc thuyền đánh cá ven đảo và các góc biển càng làm tăng thêm vẻ đẹp hoang sơ, hữu tình của một vùng biển đảo. Nguồn Bộ Văn hóa Thể Thao và Du Lịch.
Khánh Hòa 2279 lượt xem
Danh thắng Hòn Chồng – Hòn Đỏ nằm bên bờ vịnh Nha Trang, thuộc hai phường Vĩnh Phước và Vĩnh Thọ, thành phố Nha Trang. Danh thắng gồm: Hòn Chồng, Hòn Đỏ, và Hội quán vịnh Nha Trang. Năm 1998, danh thắng được xếp hạng di tích Quốc gia. Danh thắng Hòn Chồng – Hòn Đỏ hình thành do sự kiến tạo của tự nhiên. Đó là những khối đá lớn nhỏ xếp chồng lên nhau thành nhiều tầng nhiều lớp trải dài từ chân đồi La San ra biển Đông tạo thành bố cục khá ấn tượng trong cảnh sắc thiên nhiên vịnh Nha Trang. Ở đó tạo nên những hình tượng kỳ thú và những bãi tắm tự nhiên đẹp và kín gió. Nhóm đá phía Bắc gọi là Hòn Chồng và nhóm đá nhỏ, thấp hơn ở phía Nam gọi là Hòn Vợ. Tạo hóa khéo sắp đặt bãi đá lô nhô thành những hình tượng kỳ thú như “Cổng trời”, “Cánh tay bám đá”, “Nụ hôn của biển”, “Tiên ông” … đã hình thành nên những truyền thuyết dân gian lôi cuốn, hấp dẫn và đậm chất nhân văn. Truyền thuyết về “Vợ chồng ngư phủ”: có một đôi vợ chồng ngư dân rất nghèo sống bằng nghề chài lưới ven biển. Hai vợ chồng thường ra khơi đánh bắt tôm cá nuôi sống gia đình. Một hôm sóng to gió lớn đánh dạt thuyền họ vào đây. Những khối đá lớn cùng sóng to nhấn chìm con thuyền nhỏ. Sóng đánh thuyền vỡ tan tành và cuốn người vợ ra xa, người chồng lao theo cứu vợ. Song mỗi lần kéo vợ gần vào đến bờ, những con sóng lớn dập vào đá lại đẩy hai vợ chồng ra xa. Người chồng cố cứu vợ, một tay bám vách đá, một tay níu giữ người vợ yêu dấu. Nhưng sóng lớn ào ạt dữ dội đã nhấn chìm đôi vợ chồng ngư dân và họ đã chết bên nhau. Ngày nay, tại danh thắng Hòn Chồng vẫn còn tảng đá lớn in hằn bàn tay năm ngón của người chồng, minh chứng cho tình nghĩa vợ chồng mặn nồng, sâu sắc và thủy chung. Truyền thuyết về chàng khổng lồ ngao du sơn thủy: thuở xa xưa ở trần gian đầy hoa thơm cỏ lạ, phong cảnh kì vĩ và nên thơ, cho nên các vị tiên thường xuống trần ngao du. Các tiên ông đánh cờ, các tiên nữ vui đùa thỏa thích, các chàng khổng lồ dạo chơi ngắm cảnh… Mỗi dịp giáng trần, các tiên nữ lại tha hồ đùa vui thỏa thích, trút bỏ xiêm y ngâm mình trong những suối nước mát hay phơi mình bên bờ biển xanh sóng vỗ rì rào… Một hôm có một chàng khổng lồ đang đi tìm cảnh đẹp thú vui, điểm lạ, vô tình chàng nhìn thấy các tiên nữ đang ngâm mình bên làn nước biển trong xanh. Mải mê ngắm nhìn, chàng bước sẩy chân suýt ngã. Trong khi chới với, chàng khổng lồ bám tay vào tảng đá, làm cho đá núi lở, rơi vương vãi khắp nơi, một hòn đá có dấu tay chàng lăn ra nằm lại Hòn Chồng, còn hòn đá có dấu chân chàng nằm lại suối Tiên (Diên Khánh). Ngày nay, hòn đá in dấu tay vẫn còn và trở thành minh chứng của tự nhiên về chàng khổng lồ ngẩn ngơ si tình ngắm các tiên nữ. Còn bãi tắm nơi các tiên nữ từng tắm được dân gian gọi là bãi tắm cô Tiên cách Hòn Chồng không xa. Cách Hòn Chồng khoảng 100m về phía Nam là Hòn Vợ, nhỏ nhắn và nằm ở vị trí kín đáo hơn. Trông từ xa Hòn Vợ như hình ảnh người vợ thủy chung ôm con ngồi hóa đá mòn mỏi chờ chồng ra khơi chưa trở về. Cũng có người hình dung đó là cảnh âu yếm của người vợ thủy chung. Từ Hòn Vợ nhìn sang Hòn Chồng trông giống như chú gà con mới nở mũm mĩm đang nằm nghỉ, đầu hướng về đất liền. Cách Hòn Chồng khoảng 300m về phía Đông Nam là Hòn Đỏ. Tên gọi Hòn Đỏ bắt nguồn từ hiện tượng có những phiến đá ánh lên sắc đỏ mỗi khi ánh nắng mặt trời chiếu rọi xuống đây. Trên Hòn đảo nhỏ vẫn còn lưu giữ những cảnh sắc thiên nhiên còn nguyên sơ, thơ mộng. Đó là những sắc đỏ của những cảnh hoa ti gôn, sắc trắng của hoa sứ bên những vách đá lớn. Trong tương lai đây sẽ là điểm đến hấp dẫn quý khách khi đến Nha Trang, được dạo chơi trên hòn đảo nhỏ chỉ cách đất liền vài trăm mét. Đứng ở Hòn Chồng – Hòn Đỏ ngắm núi Cô Tiên nằm ở phía Bắc, bên bờ vịnh Nha Trang là một điều lí thú khi quý khách đến với Nha Tang – Khánh Hòa. Lúc hoàng hôn và khi chiều tà ánh nắng vàng rực ôm lấy ngọn núi Cô Tiên càng làm cho ngọn núi thêm phần rực rỡ, lôi cuốn. Không cần tưởng tượng nhiều quý khách cũng có thể nhìn ngắm hình ảnh cô gái trẻ tràn đầy sức sống đang nằm bên vịnh Nha Trang. Mái tóc suôn dài ra tận biển, khuôn mặt bầu bĩnh, khuôn ngực thanh xuân căng đầy và vòng eo nhỏ nghiêng mình bên bờ biển. Xa xa phía trước Hòn Chồng là Hòn Rùa và đảo Yến như tiền tiêu và điểm nhấn cho du khách ngắm vịnh Nha Trang. Chếch về phía Đông Nam là đảo Hòn Tre như bức tường giữ cho vịnh Nha Trang luôn lặng sóng êm đềm. Trên đảo là khu du lịch Vinpearl land – Hòn ngọc Việt . Nguồn Bộ Văn hóa Thể Thao và Du lịch.
Khánh Hòa 2048 lượt xem
Đình Phú Cang là tên gọi gắn liền với tên làng Phú Cang (thôn Phú Cang) thuộc xã Vạn Phú, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Đình do những cư dân người Việt di cư vào đây xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII để thờ Thành Hoàng làng, phối thờ Thiên Y Thánh Mẫu, Tiền Hiền, Hậu Hiền (những người có công khai khẩn đất đai, quy dân, lập ấp, tạo dựng xóm làng…) và thờ các liệt sĩ là con dân của làng đã hy sinh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đình được xây dựng trên vị trí cao, rộng ngay đầu làng. Đình nằm trong một khuôn viên khá rộng, trên một khu đất cao, diện tích khoảng 1.700m2, quay về hướng Đông Bắc. Từ ngoài nhìn vào di tích gồm các công trình kiến trúc: Nghi môn (cổng), Án phong, Đại đình, nhà Đông, nhà Tây. Đại đình được xây dựng theo kết cấu truyền thống với bộ khung gỗ có 04 cột gỗ lớn chính giữa trông rất bề thế, vững chắc đỡ lấy hệ mái có cổ lầu là kiến trúc truyền thống của Khánh Hòa. Cùng với mái ngói âm dương, hệ cửa theo kiểu “Thượng song hạ bản” và những hình tượng linh vật: Lưỡng long tranh châu, con nghê, con dơi trên đỉnh mái, bờ dải và các đầu đao nổi bật lên nền trời xanh biếc. Đó là những giá trị kiến trúc nghệ thuật cổ đặc sắc của đình làng Việt Nam. Ngoài yếu tố kiến trúc nghệ thuật còn được bảo lưu khá hoàn chỉnh trải qua hàng trăm năm chịu nhiều biến thiên, ngôi đình còn mang đậm dấu ấn lịch sử cách mạng qua các thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đặc biệt, đây là một trong những di tích tiêu biểu của thời kỳ đầu Cách mạng Tháng Tám năm 1945 tại tỉnh Khánh Hoà nói chung và huyện Vạn Ninh nói riêng. Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương chống Pháp của vua Hàm Nghi, phong trào Cần Vương ở Khánh Hòa được các sĩ phu, văn thân yêu nước đứng lên tập hợp quần chúng nhân dân chống Pháp. Lãnh đạo phong trào là Bình Tây Đại tướng Trịnh Phong, và Phó tướng – tổng trấn phía Bắc Trần Đường. Ở Vạn Ninh và Ninh Hòa với sự chỉ huy của Tổng trấn Trần Đường đã đánh cho Pháp nhiều phen kinh hoàng và đình Phú Cang là nơi tập hợp quân sĩ tập luyện để đánh Pháp từ đèo Cả trở vào. Do thực dân Pháp được trang bị vũ khí tối tân, còn nghĩa quân chủ yếu sử dụng vũ khí thô sơ nên thế lực của nghĩa quân yếu dần và bị thực dân Pháp đàn áp, nghĩa quân phải rút lui. Năm 1886, quân Pháp không bắt được Trần Đường, nên ra sức đàn áp nhân dân và người nhà của Ông, Trần Đường đã ra hàng để thực dân Pháp không đàn áp nhân dân. Chúng đã giết ông và chặt đầu bêu ở chợ nhằm uy hiếp phong trào yêu nước. Sau khi ông chết, nhân dân đưa bài vị của Ông về thờ tại đình Phú Cang với tấm lòng thành kính tri ân vị anh hùng của địa phương. Năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo phong trào cách mạng yêu nước của nhân dân ta. Năm 1936, một số Đảng viên Đảng Cộng sản đang hoạt động tại quê nhà, trong đó có đồng chí Mai Dương đã tập hợp các đồng chí đảng viên tại đình Phú Cang để thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên tại huyện Vạn Ninh. Từ đây, đình Phú Cang là cơ sở hoạt động của Đảng bộ huyện Vạn Ninh trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp đến khi giành độc lập dân tộc. Năm 1945, để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, tổ chức Việt Minh ở đây đã tập hợp thanh niên tập luyện vào ban đêm ngay tại sân đình, có người canh gác, cảnh giới báo động khi Pháp đi tuần. Cũng tại sân đình là nơi tổ chức hội họp, học tập 10 chính sách Mặt trận của Việt Minh, qua đó giác ngộ cho nhân dân về tư tưởng cách mạng, lòng yêu nước, yêu quê hương và trách nhiệm của toàn dân đánh Pháp giải phóng dân tộc. Từ đó, khí thế phong trào cách mạng ngày càng lên cao. Khi thời cơ chín muồi, ngày 14/8/1945 Mặt trận Việt Minh ở Vạn Ninh đã tập hợp nhân dân Vạn Ninh về đình Phú Cang, sử dụng trống của đình để làm hiệu lệnh tập hợp nhân dân phát động nhất tề đứng lên giành chính quyền. Trong giai đoạn 1945 – 1954, đình Phú Cang vẫn là nơi luyện tập của tự vệ, du kích địa phương, tăng cường cho cho Mặt trận Nha Trang – Khánh Hòa 101 ngày đêm chống Pháp (23/10/1945 – 02/02/1946) và bổ sung lực lượng cho đơn vị 365 của Liên khu. Lực lượng này đã tham gia chiến đấu dũng cảm tạo nên trận đánh oanh liệt, diệt xe tăng, xe bọc thép của Pháp ở đèo Cổ Mã. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đình Phú Cang vẫn là địa điểm gắn liền với cách mạng ở địa phương. Tại đây là nơi nuôi dấu cán bộ cách mạng, tiếp nhận thương binh của trận đánh tết Mậu Thân năm 1968. Trong những năm 1971 – 1972, đình Phú Cang là căn cứ cơ sở cách mạng của các đồng chí ở căn cứ địa cách mạng Đá Bàn (Ninh Hòa – Vạn Ninh), hoặc từ Vạn Ninh qua đèo Cổ Mã sang Phú Yên. Với những truyền thống đấu tranh cách mạng bao đời của nhân dân địa phương gắn liền với ngôi đình, đặc biệt là nơi phát động quần chúng nhân dân địa phương đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân sớm nhất ở Khánh Hòa, năm 1998 Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã xếp hạng đình Phú Cang là di tích lịch sử – văn hóa Quốc gia. Nguồn Bộ Văn hóa Thể Thao và Du Lịch.
Khánh Hòa 2268 lượt xem
Trịnh Phong sinh ra ở làng Phú Vinh, tổng Xương Hà, huyện Vĩnh Xương (nay là thôn Phú Vinh, xã Vĩnh Thạnh, thành phố Nha Trang). Thuở nhỏ, ông là người thông minh, học giỏi, thi đậu Cử nhân võ (1864) và được triều đình nhà Nguyễn phong chức Đề đốc, nhậm chức tại Quảng Nam. Chứng kiến cảnh người dân cực khổ, triều đình chia bè phái dưới sự xâm lược của thực dân Pháp, ông đã từ quan, trở về quê hương chờ đợi thời cơ đánh đuổi quân xâm lược. Hưởng ứng lời kêu gọi của Vua Hàm Nghi qua “Chiếu Cần Vương”, cuộc khởi nghĩa “Bình Tây cứu quốc đoàn” do Trịnh Phong lãnh đạo diễn ra năm 1885 đã chiếm lại Thành Diên Khánh và làm chủ phần lớn tỉnh Khánh Hòa. Đến năm 1886, trước thế mạnh của địch, phong trào Cần Vương ở Khánh Hòa bị dập tắt nhưng tinh thần chiến đấu anh dũng kiên cường, bất khuất đã để lại trong lòng nhân dân địa phương một tình cảm đặc biệt sâu sắc. Trịnh Phong cùng hai thủ lĩnh khác là Trần Đường, Nguyễn Khanh được suy tôn là “Khánh Hòa tam kiệt”. Trong ảnh, tượng Trịnh Phong được đặt ở chính giữa bái đường trong miếu thờ. Di tích Miếu Trịnh Phong có tổng diện tích hơn 639 m2, nằm bên đường 23/10, bao quanh bởi nhiều nhà dân, ngay dưới tán cây Dầu đôi hơn 350 năm tuổi. Miếu được khởi dựng năm 1886, gắn liền với câu chuyện lưu truyền trong dân gian. Chuyện kể rằng khi Bình Tây Đại tướng Trịnh Phong thất trận, kẻ thù đã chém đầu ông rồi đưa về Thành Diên Khánh để thị uy. Sau đó thủ cấp của ông được người thân lén đem về chôn cất, nhưng bị kẻ thù theo dõi, đành treo túi vải đựng đầu người lên bụi duối bên cạnh cây Dầu đôi. Hôm sau, người dân địa phương đã phát hiện và đem đầu người đi chôn cất, lập am thờ nhưng không biết người xấu số là ai. Mãi đến khi có một người đàn ông “lên đồng” tự xưng là Trịnh Phong bị kẻ thù sát hại, bêu đầu, được bà con chôn cất, lập am thờ cúng, nay xin có lòng cảm tạ. Từ đó, am nhỏ được người dân gọi là Miếu Trịnh Phong hay miếu Cây Dầu Đôi. Sau đó, Miếu Trịnh Phong được vua Thành Thái thứ 13 (1901) ban tặng sắc phong cho “Đại Đức Khôi Tinh”, sau đó vào đời vua Khải Định thứ 9 (1924) tiếp tục phong tặng sắc phong với mỹ tự “Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Thuần Chính”, ghi nhớ người anh hùng vì nước quên thân. Miếu được xây theo lối kiến trúc một gian hai chái, ba cửa ra vào được thiết kế theo kiểu thượng song hạ bản, kết cấu khung gỗ mang nét đặc trưng di tích truyền thống ở Khánh Hòa. Chánh điện treo một bức hoành phi bằng gỗ khắc chữ Hán Nôm “Vạn An Miếu”. Hệ cửa thiết kế theo kiểu thượng song hạ bản. Chính giữa bái đường đặt một ban thờ gỗ đơn giản nhưng thể hiện sự cổ kính, trang nghiêm. Trải qua thời gian, miếu đã qua nhiều lần được tu bổ, tôn tạo. Bốn cột gỗ vuông đỡ hệ mái chánh điện, trên thân cột chạm khắc hai cặp câu đối bằng chữ Hán Nôm và được sơn son thếp vàng, phía trên chạm trổ hoa văn hình hoa lá. Phía trong chính điện treo hai cặp câu đối ca ngợi công đức của Trịnh Phong. Giữa chính điện đặt ban thờ hội đồng, hai bên đặt cặp lọng vải, phía trên ban thờ treo một bức chấn bằng vải. Giáp với tường hồi phía sau là khám thờ bằng gỗ được chạm trổ rất tỉ mỉ và khắc chữ Hán Nôm “Thần”. Còn cây Dầu đôi cao khoảng 30m, 4-5 người ôm không xuể đứng cạnh bên đã che chở cho Miếu Trịnh Phong trải qua bao thăng trầm của lịch sử. Theo các vị cao niên, không ai biết rõ cây Dầu đôi bao nhiêu tuổi, nhưng theo ghi chép, Chúa Nguyễn Phúc Tần cho cai cơ Hùng Ngọc Hầu khai hoang rừng, mở mang bờ cõi năm 1653 đã thấy cây Dầu đôi to lớn vượt trội giữa rừng già, cai cơ hạ lệnh không chặt phá để tạo bóng mát. Năm 2016, cây Dầu đôi được công nhận là cây di sản Việt Nam. Miếu thờ Trịnh Phong được Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1991. Nguồn Bộ Văn hóa Thể Thao và Du Lịch.
Khánh Hòa 2464 lượt xem
Đình Chiên Đàn là một trong những công trình kiến trúc đình làng cổ nhất Quảng Nam. Hiện đình tọa lạc tại thôn Đàn Trung, xã Tam Đàn, huyện Phú Ninh, cách quốc lộ 1A chưa đầy 1km. Theo tư liệu lịch sử, vùng đất Chiên Đàn xưa thuộc huyện Hà Đông, phủ Thăng Hoa. Để tưởng nhớ công ơn của các bậc tiền nhân, tiền hiền, hậu hiền đã có công khai sơn phá thạch lập nên địa hiệu Chiên Đàn; người dân trong làng, trong xã thời ấy đã cùng nhau xây dựng đình Chiên Đàn có quy mô bề thế và đặt tên "Chiên Đàn xã đình" Đình nằm trên một khu đất cao, bằng phẳng. Đình chính được xây dựng theo hình chữ nhất, mặt xoay về hướng đông nam, mái lợp ngói âm dương, hai đầu của mái trang trí hoa văn tinh xảo với hình tượng "Lưỡng long triều nguyệt", mái hiên đắp hai con kỳ lân. Toàn bộ khuôn viên của đình rộng 1.500m², riêng ngôi đình chính rộng 500m², có đủ chỗ cho trên 100 người. Đình gồm 5 gian, 2 chái với 30 cột bằng gỗ mít to hơn một vòng tay người lớn, 3 gian giữa dùng làm nơi thờ tự. Mặt chính là một hàng 6 cột phân cách ngôi đình theo bố cục ba gian hai chái. Phần xà ở phía trên ba gian (xuyên hông thượng nối liền liên kết hai bộ vì kèo) . Trong đình nhiều kèo, kiện được chạm trổ tinh xảo, uyển chuyển được các nghệ nhân làng mộc Văn Hà, xã Tam Thành, huyện Phú Ninh làm nên. Một cột gỗ được trùng tu. Từ khi xây dựng cho đến nay, đình đã trải qua nhiều lần tu sửa, gần đây nhất là vào các năm 1996, 2006 nhưng các yếu tố gốc của ngôi đình vẫn được bảo tồn tính nguyên vẹn của một công trình kiến trúc cổ. Theo truyền thuyết và lời kể của các cụ cao niên sống gần đình Chiên Đàn, khi vua Lê Thánh Tông đi chinh phạt, bình định phương nam, nhà vua đã sử dụng đình Chiên Đàn để nghỉ ngơi và đưa ra những quyết sách phù hợp để giành thắng lợi. Đình Chiên Đàn được xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia (Quyết định số 39/2002/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 30.12.2002 của Bộ Văn hóa Thông tin).Hàng năm vào ngày 15/7 Âm lịch, người dân mở hội đình để tưởng nhớ công ơn cha ông. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Nam.
Đà Nẵng 2298 lượt xem
Tháp Bình Lâm là một ngôi tháp Chămpa cổ tại thôn Bình Lâm, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, cách Tp.Quy Nhơn 22km. Đây là một ngôi tháp tương đối đặc biệt ở Bình Định, vì khác với các tháp khác nằm trên đồi thì tháp Bình Lâm nằm ngay trên đồng bằng và như hòa mình vào thiên nhiên và khu dân cư bao quanh. Tháp có bình đồ vuông, mỗi cạnh khoảng 10m, cao khoảng 20m chia làm 3 tầng, trang trí hoa văn tinh tế, kiến trúc hài hòa với những đường nét vừa tinh tú vừa khỏe khoắn. Tháp được xếp hạng là di tích Kiến trúc Nghệ thuật vào năm 1993. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.
Gia Lai 2428 lượt xem
Đào Duy Từ (1572-1634) là một nhân vật lịch sử thế kỷ 17, một người tỏ ra xuất sắc trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự và văn hóa. Đào Duy Từ sinh năm 1572 tại phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa (tức huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa ngày nay). Vốn là người tinh thông sử sách, lý số và binh pháp, nhưng do bị kìm hãm dưới Triều Lê-Trịnh, không cho ông thi vào hạng Cổng Cử (tức Cử nhân) vì xuất thân từ gia đình kép hát (xướng ca vô loài), nên ông uất chí bỏ vào Đàng Trong lập nghiệp. Đó là vào năm 1625, khi đó Đào Duy Từ đã 53 tuổi. Khi mới vào Nam, do gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, ông phải ẩn thân đi ở chăn trâu cho nhà phú hộ Chúc Trịnh Long ở xã Bồ Đề (nay thuộc thị trấn Bồng Sơn, huyện Hoài Nhơn thuộc tỉnh Bình Định).Vì mến tài của Đào Duy Từ, quan Khám lý Trần Đức Hòa đã gả con gái cho đồng thời tiến cử Đào Duy Từ cho Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (quan Khám lý Trần Đức Hòa (còn gọi là Cống Quận công) người cùng xã và cũng là anh em kết nghĩa với Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (còn gọi là Thụy Quận Công). Chúa Sãi đã phong cho ông làm Nội tán, xem như người tâm phúc. Do được trọng dụng, ông đã hết lòng tận tụy giúp chúa Nguyễn về tổ chức quân sự, chính trị, văn hóa và đã đương đầu thành công với Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và được chúa Sãi ví như Ngọa Long Gia Cát (Khổng Minh) của mình. Sinh thời, ông sáng tác nhiều tác phẩm văn, thơ và là ông tổ của nghệ thuật hát tuồng, nổi tiếng với hai ngâm khúc là "Ngọa Long cương văn" và "Tư Dung vãn". Ông đồng thời là tác giả bộ sách quân sự đặc biệt "Hổ trướng khu cơ", được xem là một trong hai bộ sách về nghệ thuật quân sự (tác phẩm kia là "Binh thư yếu lược") của người Việt Nam. Ông mất năm Giáp Tuất (1634), thọ 62 tuổi. Sau khi mất, được Chúa Sãi phong tặng “ Hiệp niên đồng đức công thần, Đặc tiến kim tứ Vinh lộc đại phu” cho thờ ở Thái Miếu. Đến triều Minh Mạng, Đào Duy Từ được truy phong tước” Đại học sỹ -Thái Sư Hoằng Quốc công” và cho lập đền thờ tại nơi ở của ông - nay là thôn Ngọc Sơn, xã Hoài Thanh Tây, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Đền thờ ngày nay vẫn giữ được khuôn viên của nó và vẫn được dòng họ và nhân dân địa phương thờ tự và gìn giữ. Ngày 15/10/1994, khu Đền thờ Đào Duy Từ được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
Gia Lai 2663 lượt xem