Di tích lịch sử

Việt nam

Chùa Mễ Sở.

Chùa Mễ Sở tọa lạc ở thôn Mễ Sở, xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa Mễ Sở nằm cạnh đê sông Hồng, nằm giữa một vùng quê trù phú từ lâu đã nổi tiếng với pho tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay. Chùa được dựng từ thời Hậu Lê và đã được tu sửa nhiều lần, các dấu tích hiện còn chủ yếu được trùng tu vào cuối thế kỷ XIX. Duy chỉ có bức tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, còn giữ được tương đối nguyên vẹn. Quan Âm hay Quan Thế Âm có nghĩa là nghe tiếng kêu đau khổ của chúng sinh trong cuộc đời để cứu vớt. Quan Âm có thể hóa hiện thành muôn nghìn hình khác nhau để thích ứng với mọi hoàn cảnh nhằm cứu độ mọi trường hợp đau khổ. Với một pháp lực và quyền năng vô biên, cùng sự minh triết tuyệt đối với thiên thủ thiên nhãn, người cứu độ hết thảy. Tượng được tạo tác trong tư thế ngồi tọa thiền với kích thước khá lớn. Từ chỏm tới mặt ngồi cao 1,4m, bệ cao 0,53m, tòa sen cao 0,23m, với khuôn mặt thanh thoát, thuần hậu, thân hình thon thả, tạo nên một pho tượng đẹp cả về nội dung và hình thức thể hiện. Tượng có hai đôi tay chính, đôi thứ nhất chắp trước ngực, mang ấn “chuẩn đề“, đôi tay còn lại đưa lên phía trên đỡ các đài sen và tượng Phật nhỏ. Các đôi tay lớn ít nhiều có nét mềm mại uyển chuyển, các cánh tay tròn lẳn, đế trần được chắp vào ờ hai cạnh sườn trong tư thế cao thấp khác nhau. Độ mở của các cánh tay vừa đủ cao mà không che khuất pho tượng. Ngay sát phía sau tay lớn là hệ thống tay nhỏ với hàng trăm tay mắt được kết thành 10 lớp mọc theo từng cặp cân xứng. Mười lớp tay mắt này lại được chia làm 3 phần lớn, tạo cảm giác như có ánh hào quang tỏa ra từ đầu tượng. Phía trên đầu tượng ở mũi hào quang chạm nổi hình đám mây với những cánh tay nhỏ đan đều như những cánh chim trong tư thế bay xuống. Con chim này đã tránh cho vầng hào quang nét “vô duyên” của tạo hình, gợi mở cho người xem trí tò mò về Phật pháp. Các tay nhỏ của tượng được thể hiện với những cánh tay dài thon thả, các mắt được đặt trong lòng bàn tay kết ấn cam lộ, các cánh tay này dài ngắn khác nhau theo độ mở dần lấy đầu tượng làm trung tâm, khiến chúng như mang một chức năng kết hợp tạo thành hào quang… Cùng với phần đài sen, bệ tượng, tất cả tạo nên một pho tượng hoàn chỉnh với những đường nét điêu luyện tỉ mỉ. Quan niệm vẻ đẹp đương thời đã được các nghệ nhân gửi gắm vào pho tượng với những đường nét thanh thoát, phúc hậu cho khuôn mặt và dáng tượng. Đây là một trong những pho tượng gỗ tiêu biểu cho mỹ thuật Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỳ XIX. Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa Mễ Sở là niềm tự hào của điêu khắc tượng Việt, mang nhiều nét sáng tạo mà vẫn phản ánh được tinh thần nhân ái của đạo Phật và tâm hồn Việt Nam. Chùa Mễ Sở được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia ngày 16 tháng 11 năm 1988. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 2676 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Đầu và Đền Ngò

Đền Ngò thờ Hai Bà Trưng, Người phụ nữ Việt Nam đầu tiên phất cờ khởi nghĩa đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, giành lại nền độc lập cho nước nhà. Đền được ông cha ta kiến tạo ngay đầu làng trong một khuôn viên thoáng rộng, đón gió bốn phương, cảnh sắc hài hoà, thâm nghiêm, tráng lệ. Mặt trước đền có hồ sen hình bán nguyệt, in hình bức bình phong lớn có dáng cuốn thư lượn hình cờ kiếm và long, ly, qui phượng. Trước cổng đền là hai cột trụ to, cao vuông vức khắc ghi hai hàng câu đối: - Phong Quận cựu binh uy vạn cổ anh thanh kinh Bắc địa. - Hương viên lưu hiển tích thiên thu linh ứng trần Nam bang. Đại ý là: (Chiến công của nghĩa quân Châu Phong vang trời đất Tiếng thơm của Hai Bà lừng lẫy đến muôn đời) Tiếp đó là hai lầu tượng, trong đó tạc hình đôi voi chiến - Hai Bà cưỡi voi ra trận. Bên trong Đền có hoành phi, câu đối, bài vị, đồ tế tự… đều sơn son thếp vàng choáng ngợp sắc mầu. Hậu cung có hai ngai thờ cổ, tượng Hai Đức Vua Bà ngự trong khám lớn. Tượng cao chừng hơn một mét, đường nét điêu khắc tinh xảo, độc đáo. Với tư thế vươn nên phía trước, hai cánh tay tượng giơ cao ngang tầm mắt, dấu hiệu của chữ Tràng Khoát, dụ trước ba quân, giữ vững sơn hà. Tượng Hai Bà lồng lẫy trong bộ lễ phục màu hồng, toả ánh hào quang lung linh đèn nến. Đền Ngò hiện còn lưu giữ được 18 sắc phong qua các triều đại từ thời Lê Cảnh Hưng. Đó là những văn liệu vô cùng quý giá. Tháng 8-1945, Đền Ngò là nơi diễn ra cuộc mít tinh lớn sau khi cướp chính quyền huyện Văn Giang tuyên bố chấm dứt chế độ cũ, chính quyền mới về tay nhân dân. Nhiều năm tháng trôi qua, sau bao lần trùng tu, tôn tạo, đền Ngò vẫn giữ được vẻ cổ kính năm xưa. Năm 1989, Bộ văn hoá đã cấp công nhận Đền Ngò là di tích lịch sử - văn hoá cấp Quốc gia, được Nhà nước bảo vệ. Địa danh lịch sử Đền Ngò mãi mãi gắn liền với địa danh lịch sử Đồng Chầu, Giếng Da, Bãi Yến. Những địa danh đó đã đánh đấu những kỳ tích lớn lao của một thời kỳ lịch sử, ghi nhận công sức của người Phụng Công theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Đình Đầu được xây dựng cùng thời với Đền Ngò và đồng thờ phụng Hai Bà Trưng - Người anh hùng dân tộc. Đình Đầu to, đẹp, lộng gió đồng quê, cổ kính, rêu phong, trải sắc mầu năm tháng. Cổng đình lồng đèn thao rủ, hai hàng câu đối nhắc nhở hậu thế trân trọng nếp nề. Đao đình uốn lượn cong lên hướng về tam sơn theo kiểu tứ linh chầu nguyệt bao trùm khu tiền lễ và hậu cung. Gian giữa khu tiền lễ bầy hương án, có đỉnh hạc, lư hương… Trên cao treo cửa võng sơn son thếp vàng. Bốn bức hoành phi rộng khắp các gian đình, mang 4 hàng chữ: Trưng Thánh Vương điện Vạn cổ anh linh Thăng long định đỉnh Chính khí quang minh Tất cả đã khái quát vẻ thiêng liêng thành kính của ngôi đình. Hai bên khu tiền lễ là hai hàng Bát bửu, gươm vàng uy nghi, trang trọng. Hậu cung có tượng Hai Đức Vua Bà tạc bằng đá quý theo mẫu hình Quốc gia ở đền Đồng Nhân – Hà Nội. Quanh đình có nhiều cây cổ thụ tràn trăm năm tuổi, toả bóng mát cùng ngôi đình trầm mặc ghi dấu ấn thời gian. Những năm đầu hoà bình lập lại và những năm chống Mỹ, đình Đầu là địa điểm tổ chức nhiều kỳ Đại hội Đảng bộ cấp xã, nhiều Hội nghị quan trọng của huyện Văn Giang. Năm 1970 cũng tại đình Đầu, Bộ y tế nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã tổ chức Hội nghị cán bộ lãnh đạo ngành Y toàn miền Bắc do Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch chủ trì quyết sách những chủ trương lớn về y học trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội và chiến đấu chống Mỹ cứu nước. Đình Đầu có 18 sắc phong qua các triều đại và cũng bắt đầu từ thời nhà Lê. Năm 1989, Bộ văn hoá đã cấp bằng xếp hạng công nhận đình Đầu là di tích lịch sử, văn hoá cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 2606 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Phú Thị ( Hưng Phúc Tự)

Chùa Phú Thị tọa lạc trên một khuôn viên rộng, nằm phía ngoài và sát ngay chân đê sông Hồng, thuộc xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Chùa được xây dựng theo kiểu chữ “Đinh” (丁), cửa nhìn về hướng Tây Nam và có tên Hán là Hưng Phúc Tự. Chùa được xây dựng từ thời Hậu Lê và theo hệ phái Bắc Tông. Chùa đã được trùng tu nhiều lần và lần gần đây nhất là vào năm 1991. Bước chân vào thăm chùa, đầu tiên du khách sẽ đi qua tam quan - cổng phía ngoài chùa. Nhìn bên ngoài tam quan như 3 kiến trúc riêng biệt với ba cửa. Cửa giữa cao to, được xây hai tầng, mặt bằng hình vuông. Tầng trên và tầng dưới bằng nhau. Trên nóc tầng hai lợp ngói mũi hài với bốn đầu đao tỏa ra bốn hướng. Hai bên tả hữu là hai cửa nhỏ đối xứng. Ngay sau hai cửa nhỏ này là các bậc dẫn lên tầng hai của cửa giữa. Đi qua tam quan là tiền đường (Thượng điện). Nhìn bên ngoài, tiền đường được xây dựng theo kiểu chồng diêm với hai gác chuông và trống ở nóc mái nhà. Chuông chùa (Đại hồng chung) được đúc vào thời vua Minh Mạng. Vào bên trong, du khách sẽ thấy tiền đường gồm năm gian với không gian rộng và thoáng. Bốn hàng cột lim đều đặn được phân bổ ở giữa tiền đường. Trên xà ngang trung tâm tiền đường được bài trí một của võng chạm nổi hình lưỡng long chầu nguyệt và được sơn son thếp vàng. Giáp tường phía trong đặt 6 pho tượng là tượng Khuyến Thiện, tượng Trừng Ác, tượng hai thánh Tăng, tượng hai Thị Giả. Những bức tượng này làm tăng thêm vẻ uy linh của tiền đường. Bên cạnh đó chùa có nhiều pho tượng cổ bằng gỗ hoặc đất nung phủ sơn, như tượng Chuẩn Đề, tượng Địa Tạng (cao 1,08m); bộ tượng Thập Điện Minh Vương (cao 0,90m), tượng Cấp Cô Độc (cao 1,07m). Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia. Theo quyết định số 14 ngày 4 tháng 4 năm 1984. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 2748 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu lưu niệm danh nhân Hoàng Hoa Thám

Làng Trũng, thuộc xã Ngọc Châu, huyện Tân Yên là một làng cổ gắn liền với biết bao kỷ niệm về người anh hùng áo vải Hoàng Hoa Thám từ thời niên thiếu đến khi trưởng thành. Nơi đây, xưa kia từng là nơi đánh trận giả chơi trốn tìm của Hoàng Hoa Thám, nay lại là nơi tôn thờ, tưởng niệm ông- người có công lớn với quê hương Bắc Giang, với đất nước Việt Nam. Mỗi khi nói đến làng Trũng, người ta thường nhắc đến khu di tích lưu niệm danh nhân Hoàng Hoa Thám. Khu di tích cách thành phố Bắc Giang khoảng 20km về phía tây-bắc. Đây là quần thể di tích bao gồm các công trình như: đình, đền, chùa, điếm, nơi ở và khu mộ thân tộc Hoàng Hoa Thám. Theo truyền miệng của các cụ địa phương được biết: Đình Trũng khi xưa được cụ Hoàng Hoa Thám xây dựng ban đầu ở Tân Châu (Trũng Ngoài). Sau đó cụ Thống Luận đã di chuyển đình về Trũng Trong, liền kề phía trước chùa Trũng. Đình xưa bao gồm toà tiền đình ba gian nối với hậu cung một gian tạo thành bố cục hình chữ đinh (J). Đình Trũng xưa có 2 đạo sắc do các đời vua nhà Nguyễn phong cho Thành hoàng làng là Cao Sơn và Quý Minh Đại Vương. Sau khi Hoàng Hoa Thám mất, để tỏ lòng thành kính và trân trọng đối với người anh hùng dân tộc, nhân dân địa phương đã tôn thờ ông ở trong đình cùng với Thành hoàng làng. Trải qua thời gian và chiến tranh, đình Trũng bị xuống cấp hư hỏng nặng. Nay chỉ còn nền móng ở phía trước chùa Trũng. Sau khi Hoàng Hoa Thám bị sát hại, để tỏ lòng biết ơn và thành kính đối với vị tướng tài ba, nhân dân làng Trũng đã xây dựng ngôi đền làm nơi tưởng niệm, ở gần kề bên khu di tích đình, chùa làng Trũng. Từ khi xây dựng cho tới nay, đền thờ được nhân dân thường xuyên quan tâm, tu sửa, mua sắm các đồ thờ, tạc tượng Đề Thám… để lưu truyền hậu thế. Đền thờ Hoàng Hoa Thám hiện nay ở phía trước khu di tích đình, chùa Trũng, ngoảnh nhìn hướng Đông Nam. Đền thờ Hoàng Hoa Thám gồm ba gian theo bố cục hình chữ nhất. Bên trong gian chính giữa bài trí một pho tượng Hoàng Hoa Thám được đúc bằng đồng cao 150cm, bên tường hồi trái treo một bức tranh của gia đình cụ Đề Thám và các con tại đồn Phồn Xương. Theo các nguồn tư liệu lịch sử cho biết: Hoàng Hoa Thám hay còn có tên gọi là Đề Thám. Cha là Trương Văn Thân, quê gốc ở làng Dị Chế, xã Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Ông sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho có truyền thống thượng võ và yêu nước. Cả cha và mẹ đều tham gia vào cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình nhà Nguyễn nên bị nhà Nguyễn sát hại. Lúc này, ông cải họ là họ Đoàn, tên Nghĩa và được ông chú nuôi dưỡng đem đi trốn khỏi sự truy lùng của triều đình và cải tên là Thiện. Quanh quẩn ở vùng Sơn Tây sợ không thoát được nên chú cõng cháu chạy về làng Trũng, xã Ngọc Châu, phủ Yên Thế ở. Một lần nữa cải họ là họ Hoàng và đặt tên mình là Quát, tên cháu là Thám. Từ đó dân làng Trũng vẫn cho là hai bố con chứ không ai biết đó là hai chú cháu. Vì nhà nghèo nên ông Quát phải cho cháu vào làm con nuôi nhà ông Lý trong làng, còn mình làm nghề thợ thêu kiếm sống. Mặc dù vậy nhưng quãng đời niên thiếu cho đến khi trưởng thành, Hoàng Hoa Thám đã gắn liền với những kỷ niệm của làng Trũng và vùng Yên Thế. Sinh ra trong bối cảnh đất nước bị giặc ngoại xâm, sống trong một địa phương có nhiều thủ lĩnh nổi lên chống giặc và đóng giữ những nơi hiểm yếu đã ảnh hưởng không ít đến cuộc đời của Hoàng Hoa Thám. Chính vì thế mà dân trong vùng Yên Thế cho đến nay vẫn còn nhớ và kể khá rõ từng mẩu chuyện về thời niên thiếu cũng như lúc trưởng thành của Hoàng Hoa Thám. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG

Bắc Ninh 3053 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Gốc Khế

Trong hệ thống Di tích quốc gia đặc biệt của huyện Tân Yên, Đền Gốc Khế là một trong những di tích tiêu biểu. Di tích nằm gần ngã tư Nhã Nam, phía sau là Đồi Phủ nó liên quan mật thiết trong cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Di tích này xuất hiện muộn, chừng những năm đầu của thế kỷ XX. Khi mới được xây dựng, đền có quy mô vừa phải gồm 3 gian tiền tế và 2 gian hậu cung, các cấu kiện kiến trúc được làm bằng gỗ tứ thiết chắc khỏe. Theo thời gian trước sự tàn phá của thiên tai, chiến tranh, ngôi đền xuống cấp và được tu sửa, tôn tạo nhiều lần. Đền Gốc Khế có bình đồ kiến trúc hình chữ đinh gồm 1 tòa tiền tế 3 gian và 1 gian hậu cung, kết cấu khung mái bằng gỗ, lợp ngói mũi, kèo kìm trốn cột, quá giang gác tường. Trong đền còn bảo lưu được một số đồ thờ tự như: Bát hương, mâm đài, cây đèn, hộp đựng trầu thờ bằng gỗ. Hệ thống tượng thờ trong đền là những pho tượng cổ bằng gỗ với lối tạo tác đặc trưng tượng thời Nguyễn. Do nằm ngay cạnh đình chùa Nam Thiên và trong khu vực Đồi Phủ nên trong cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế, ngôi đền này lưu giữ nhiều sự kiện lịch sử trên vùng đất thượng du của Yên Thế xưa và Tân Yên ngày nay. Giai đoạn 1892-1894, đền Gốc Khế từng là địa điểm để tổ chức nhiều cuộc họp giữa những tướng lĩnh của Hoàng Hoa Thám như: Đề Công (Tạ Văn Công), Đề Nguyên (Tạ Văn Nguyên), Đề cần (Tạ Văn Cần), Thống Ngò (Tạ Văn Khấu), Quản Khối (Giáp Văn Khối). Qua những cuộc họp này đã đi đến thống nhất đưa ra những sách lược, chiến lược quan trọng, mang tính quyết định nhằm đi đến một mục tiêu duy nhất là đánh đuổi thực dân Pháp. Hàng năm, vào ngày 15, 16 tháng Giêng, nhân dân Nhã Nam tổ chức lễ hội tôn vinh Thánh Mẫu, và ghi nhớ công lao của Trần triều Đại vương Trần Quốc Tuấn. Đồng thời, lễ hội còn là hoạt động để tri ân các vị tướng lĩnh của cuộc khởi nghĩa Yên Thế đã anh dũng hy sinh thân mình để bảo vệ sự bình yên của nhân dân. Trong những ngày lễ hội có tổ chức tế lễ, rước sách cùng các trò chơi dân gian độc đáo và những hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian phong phú, thu hút nhân dân ở khắp các vùng nô nức kéo về dự hội. Đền Gốc Khế, cái tên rất dân giã. Quy mô không lớn nhưng ẩn chứa nhiều điều thú vị và là chứng tích quan trọng trong một thời đoạn lịch sử của Nhã Nam. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN TÂN YÊN

Bắc Ninh 2911 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Nghĩa địa Pháp

Từ năm 1885 trở đi, phong trào Khởi nghĩa Yên Thế phát triển mạnh nên thực dân Pháp lập một hệ thống đồn bốt để chống lại phong trào khởi nghĩa do Lương Văn Nắm, sau đó là Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Chúng đã lập các đồn Nhã Nam, Bỉ Nội, Cao Thượng, Bố Hạ... từ đó tổ chức các cuộc hành binh càn quét đàn áp nghĩa hành quân của Pháp đã đụng độ với nghĩa quân Yên Thế ở nhiều làng xã và nhiều khu căn cứ như trận làng Mạc (1885), trận làng Sặt (1889), trận Cao Thượng (1890), trận Hố Chuối (1890- 1891), các trận dọc bờ sông Sỏi thuộc các khu: Đồn Hom, Khám Nghè, Đề Trung, Đề Truật, Thống Phức, Đề Lâm (1892) Phồn Xương, Đồn Đền, Rừng Phe (1909), Ngàn Ván (1911)... Trong các trận đó, chúng đã phải chịu nhiều thất bại, nhiều tên giặc bị tiêu diệt mà vẫn không dập nổi phong trào. Những tên sỹ quan, binh lính Pháp, Việt bị chết trong các chiến dịch bởi các lối đánh của nghĩa quân đã được đem về chôn tại các nghĩa địa ở Vôi (Lạng Giang), Bố Hạ (Yên Thế), Nhã Nam (Tân Yên)... Nghĩa địa của Pháp ở Nhã Nam là một trong những nghĩa địa được hình thành như vậy. Nghĩa địa Pháp hiện nay thuộc xã Nhã Nam, huyện Tân Yên, cách thành phố Bắc Giang khoảng 23km về phía Tây Bắc. Từ năm 1885 trở đi, phong trào Khởi nghĩa Yên Thế phát triển mạnh nên thực dân Pháp lập một hệ thống đồn bốt để chống lại phong trào khởi nghĩa do Lương Văn Nắm sau đó là Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Chúng đã lập các đồn Nhã Nam, Bỉ Nội, Cao Thượng, Bố Hạ... từ đó tổ chức các cuộc hành binh càn quét đàn áp nghĩa hành quân của Pháp đã đụng độ với nghĩa quân Yên Thế ở nhiều làng xã và nhiều khu căn cứ như trận làng Mạc (1885), trận làng Sặt (1889), trận Cao Thượng (1890), trận Hố Chuối (1890- 1891), các trận dọc bờ sông Sỏi thuộc các khu: Đồn Hom, Khám Nghè, Đề Trung, Đề Truật, Thống Phức, Đề Lâm (1892) Phồn Xương, Đồn Đền, Rừng Phe (1909), Ngàn Ván (1911)... Trong các trận đó, chúng đã phải chịu nhiều thất bại, nhiều tên giặc bị tiêu diệt mà vẫn không dập nổi phong trào. Những tên sỹ quan, binh lính Pháp, Việt bị chết trong các chiến dịch bởi các lối đánh của nghĩa quân đã được đem về chôn tại các nghĩa địa ở Vôi (Lạng Giang), Bố Hạ (Yên Thế), Nhã Nam (Tân Yên)... Nghĩa địa của Pháp ở Nhã Nam là một trong những nghĩa địa được hình thành như vậy. Nghĩa địa Pháp hiện nay thuộc xã Nhã Nam, huyện Tân Yên, cách thành phố Bắc Giang khoảng 23 km về phía Tây Bắc. Nghĩa địa Pháp được đặt trên một sườn đồi nhỏ xưa kia thuộc đất làng Lã ở Nhã Nam. Làng này đã bị quân Cờ Đen tàn phá phiêu dạt hết. Trong khu đất của nghĩa địa có nhiều mộ và được chia làm hai loại: Loại thứ nhất là mộ xây bằng đá khối vuông và chữ nhật. Đây là loại mộ dành cho sỹ quan. Loại thứ hai là mộ binh lính đắp đất có bia đá. Trong số các mộ sĩ quan Pháp đó có hai ngôi mộ được xếp bằng các phiến đá xanh vuông và các phiến đá chữ nhật trên đó có khắc chữ Pháp. Tất cả các ngôi mộ của nghĩa địa này nay đã bị san phẳng không còn dấu tích mộ. Chỉ còn các phiến đá to nặng vương vãi trong làng bên đồi. Ớ Bảo tàng Bắc Giang đã sưu tầm được một tấm bia ghi rõ người chôn ở đây là Nguyễn Văn Tố bị chết ở Hố Chuối (1890-1891), tấm bia nhỏ này cho biết đó là binh lính Việt được chôn đắp mộ đất. Những khối đá xanh ốp mộ rất lớn và nhiều kích cỡ. Có hai khối đá vuông trên đó người ta đã tạc hai vòng tròn ở hai bên tượng trưng cho cành ô liu được bó bằng một băng lụa. Đó là biểu tượng của người Pháp dành cho người đã chết vì đất nước Pháp. Mặt chính diện có khắc nhiều chữ ghi tên tuổi, lý do của kẻ chết trận ở Yên Thế. Nghĩa địa Pháp, đồi Phủ trở thành địa điểm ghi dấu những sự kiện mà trong lịch sử Yên Thế - Tân Yên ngày nay không thể không nhắc tới. Nó là một bằng chứng góp phần làm cho các tầng lớp nhân dân hiểu thêm về phong trào khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo và hiểu về thời kỳ Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Nơi đây chính quyền địa phương đã cho dựng bia ghi dấu sự kiện Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở bên đồi Phủ để giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ mai sau. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN TÂN YÊN

Bắc Ninh 2749 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Làng Mai Viên

Đình Mai Viên thuộc thôn Mai Viên, xã Song Mai - một xã có địa bàn rộng, đông dân cư và phát triển trên nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội của huyện Kim Động. Mai Viên được hiểu trong đó “Mai” làng đẹp như một vườn mai, “ Viên” làng có nhiều quan chức, viên chức. Theo thần tích và sắc phong và truyền ngôn lại trong dân, đình thôn Mai Viên được khởi dựng khá sớm vào thời Hậu Lê với quy mô còn nhỏ bé. Đình tọa lạc trên một gò đống cao ráo thoáng mát,cảnh quan đẹp, thuận tiện cho việc sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân. Mặt tiền quay về hướng Đông Nam, phía trước đình là cây đa giếng nước cổ kính có niên đại hàng trăm năm, sân đình được bao phủ bởi tán cây bàng, nhãn mát mẻ. nhìn toàn bộ bên ngoài cho ta cảm thấy dự uy nghi và tôn kính bởi vẻ đồ sộ và cổ kính của ngôi đình làng. Di tích đình Mai Viên được xây dựng theo kiến trúc kiểu chữ I (chữ công) nhưng mất phần hậu cung và 2 nhà chè. Nay di tích còn lại một nhà tiền tế đồ sộ vừa được nhân dân sửa chữa, mái lợp ngói mũi phẳng, đầu hồi 2 bên nóc đình được đắp hai đầu kìm đội lân. Trải dài phần nóc nghệ nhân đắp nổi đôi rồng chầu mặt nguyệt uốn thành 3 khúc khỏe mạnh và uy nghi. Kiến trúc đình Mai Viên cao ráo bề thế, kết cấu vì kèo nóc từ đầu đến phần mái theo kiểu chồng rường đấu xen, hệ thống con gường đỡ hoành chạm nổi hình lá lật cách điệu. Do những biến động của lịch sử và xã hội, kiến trúc đình không còn đồng bộ và phải tu bổ nhiều lần vào thời Nguyễn, vì vậy nghệ thuật kiến trúc mang đậm nét thời Nguyễn. Cũng như những ngôi đình ở các xã khác, đình Mai Viên vừa được coi là trụ sở để dân hội họp, bàn việc làng vừa là nơi thờ thần hoàng. Theo sắc phong và thần tích thì đình thờ 5 vị thành hoàng làng và 3 vị đức thánh tổ như: Trung Thành Đại Vương, Linh Lang Đại Vương, Cao Mang Đại Vương, Đổng Vĩnh Đại Vương và vị Đức thành tổ có công với dân, dạy dân làng làm nghề nung vôi, đóng gạch, làm nghề thợ xây. Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, đình Mai Viên là cơ sở tụ họp của các đồng chí lão thành cách mạng. Năm 1942 phong trào cách mạng phát triển, các cán bộ cách mạng đã về đây để tạo dựng cơ sở. Đình còn là nơi hậu đóng quân của bộ đội huyện cơ sở in ấn tài liệu kháng chiến, đào hầm bí mật ở hậu cung để bảo vệ bộ đội du kích. Trong những năm chống Mỹ, cơ sở còn khó khăn UBND xã Song Mai tạm mượn đình Mai Viên để họp hành tại đây. Đến năm 1988 mới trả cho thôn. Ngày nay, đình Mai Viên còn lưu giữ các hiện vật quý có giá trị lịch sử, văn hóa như: tại đình hiện có một ngai vàng thờ thời Nguyễn, 3 bát hương thời Nguyễn, 2 hòm sắc, 1 giá chúc với 27 sắc phong qua các triều đại, ống hưởng, đài gỗ và một số đồ thờ khác có niên đại muộn, đỉnh đồng 2 chiếc, nến đồng 2 đôi, lục bình một đôi. Năm 1998 đình làng Mai Viên được nhà nước công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nhân dân địa phương không chỉ coi đây là trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng mà còn là nơi để mọi người tổ chức ôn lại truyền thống cha ông, các thuần phong mỹ tục, nếp sống cộng đồng. thông qua đó là sự giao lưu văn hóa giữa các vùng, giữa các thành viên trong cùng một cộng đồng để tạo nên mối gắn kết nhân ái, tình làng nghĩa xóm. Ngôi đình là niềm tự hào của nhân dân trong thôn. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 2897 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đền Bà Chúa Mụa

Bà Chúa Mụa (1580 – 1648)bà tên thật là Trần Thị Cư, sinh ngày 5 tháng 5 năm Canh Thìn (1580) tại làng Mụa, tổng Thiên Thi, phủ Khoái Châu xưa, nay thuộc thôn Cộng Vũ, xã Vũ Xá, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Truyền thuyết kể rằng, vào một ngày kia, chúa Trịnh Tráng xa giá đi qua vùng này, rộn ràng nào ngai, nào kiệu, cờ xí rợp trời, kèn trống vang lừng, dân làng náo nức đi xem. Một cô gái cắt cỏ cạnh đường cái quan vẫn cứ mặc như không hay biết gì. Khi kiệu đi qua, cô không hề nhìn lên, đôi tay thoăn thoắt giật liềm vơ cỏ, miệng hát véo von, trong trẻo: Tay cầm bán nguyệt xênh xang Một trăm thức cỏ lai hàng tay ta Quân lính ngạc nhiên, tiếng hát càng véo von và kiệu chúa từ từ dừng lại. Chúa kéo rèm lên nhác thấy có cô gái có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành, đối đáp thông minh, biết đây là kỳ nữ. Chúa truyền rước cô về kinh thành Thăng Long rồi ban quốc tính, đổi tên là Trịnh Thị Ngọc Am. Bà giúp chúa trông nom việc học tập trong phủ của các cung tần, mỹ nữ, củng cố mối đoàn kết giữa chúa với triều đình nhà Lê. Bà sinh được một người con gái là Trịnh Thị Minh, được chúa ban cho 4 đĩa vàng và 1 đĩa bạc. Chẳng bao lâu công chúa Thụy Minh qua đời, quá đau buồn, bà xin về tu ở chùa làng. Chúa rất quý mến người vợ tài sắc của mình, cho khai con sông nhánh từ sông Cửu An chạy qua làng Mụa để vận chuyển các loại đồ quý về xây tháp. Hàng ngày, bà lên tháp tưởng vọng về phủ chúa ở Thăng Long. Bà đã bỏ tiền ra giúp dân khai khẩn ruộng đất, khai sông dẫn thủy nhập điền. Bà giàu lòng nhân đức hay giúp đỡ mọi người và cầu Phật ban phúc lành cho dân chúng. Tự bà xin lập và tu sửa các chùa chiền quanh vùng và phổ biến lễ cúng Phật. Bà chẳng những có công lớn đại trùng tu chùa mà còn bỏ tiền cùng dân 13 thôn dựng đình. Bà Trịnh Thị Ngọc Am mất vào tuổi 68, nhân dân tôn bà làm thần và lập đền thờ ngay tại quê hương. Đền Mụa dựng vào thế kỷ thứ 17, trùng tu vào thời Nguyễn, kiến trúc kiểu chữ “Nhị”. Cổng Tam quan khá đồ sộ, có hai hàng câu đối: Tài sắc song toàn nơi phủ chúa Nghĩa tình trọn vẹn với quê hương Cạnh đó có tòa thư điện nhỏ đặt pho tượng phỗng tạc đá xanh, dáng dấp bụng phệ được thờ bằng bát hương cũng bằng đá xanh chạm chân quỳ, có 3 tai mặt hổ phù. Trước cửa đền đặt tấm bia dựng năm 1634 có ghi: Bà chúa Mụa Trịnh Thị Ngọc Am đệ nhất cung tần vương phủ chúa Trịnh Tráng. Tấm bia thứ hai dựng năm 1650 ghi nhận công lao của bà với dân làng trong việc dựng chùa, đình, đền, miếu… Tại gian trung tâm tòa đại bái có nhang án bằng đá, chạm khắc nổi thành ba bức phù điêu: bức giữa chạm nổi hình trong, hai bên chạm “Long cuồn thủy”, xung quanh chạm hoa văn sóng nước cách điệu, mang phong cách Hậu Lê. Trên hai cột cái tòa đại bái có hai hàng câu đối ca ngợi tài đức của Bà: Tài cao nghĩa trọng, uy thế trấn sơn hà Tích đức tu nhân, chúa cung sùng đạo Phật Gian hậu cung đặt tượng bà chúa Mụa. Năm 1634, chúa Trịnh Tráng cho tạc tượng bà bằng đá khi đang sống. Tượng to bằng người thật ngồi trên tòa sen, đầu đội vương miện, chạm nổi hình Phật Tổ Như Lai, tai đeo bông hoa to, chân xếp bằng kiểu người ngồi thiền. Phía trước tượng bà chúa là tượng Quận Công bằng đá, ngồi xếp bằng tròn, mặc áo bào. Hai tòa hai bên thờ tượng Thị Vệ và Kim Đồng chầu bà chúa, thân chạm nổi áo gấp. Sau hậu cung là tòa Cửu phẩm liên hoa, đặt nậm đá đế hoa sen, dưới chạm tượng bà chúa lúc về già. Ngày 08/6/1963 trong khi làm thủy lợi sông cầu Ngàng dân công đã đào được 4 đĩa vàng, 1 đĩa bạc của Chúa Trịnh Tráng ban thưởng cho con gái, ở đáy một đĩa có dòng chữ. “Thụy Minh công chúa kim phụ lai bát tinh công chúa” (chén bạc của cha ban cho con, Thụy Minh công chúa). Từ những giá trị trên, đền Bà Chúa Mụa được Bộ văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích “Nghệ thuật” cấp Quốc gia số 2233-Quyết Định/Bộ Văn hóa Thể Thao ngày 26/6/1995. Đặc biệt, ngày 31/12/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2283/Quyết Định - Thủ Tướng, công nhận Sưu tập đĩa vàng hoa sen Cộng Vũ (đền Mụa, xã Vũ Xá) có niên đại thế kỷ XI – XII là Bảo vật Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 1692 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đền Đào Xá

Thôn Đào Xá cùng với hai thôn Ngô Xá và Vĩnh Hậu hợp thành xã Vĩnh Xá. Đào Xá là một thôn lớn có cả đình, chùa, miếu, đền do cư dân theo đạo Phật và một nhà thờ của đạo Thiên chúa giáo. Đền Đào Xá có tên xưa là đền Sướng Thiện, là Tam Giáo Động, được xây dựng ở đầu thôn trên một khu đất cao, thoáng mát từ thập niên đầu thế kỷ XIX. Theo các cụ cao tuổi trong làng kể lại, khoảng năm 1896, cụ Từ trông coi đèn nhang đã sang đền Bạch Mã thuộc huyện Phú Xuyên tỉnh Hà Đông cũ xin tên hèm để thờ, đặt tên cho đền là Sướng Thiện. Từ đó nhân dân trong vùng tìm đến đây lễ bái cầu phúc, hướng thiện và xin thuốc nam về chữa bệnh. Đền được xây dựng theo kiến trúc điêu khắc thời Nguyễn có vòm cuốn bê tông và hình khối nội công ngoại quốc. Đến năm 1929 , nhân dân lại đóng góp công sức và tiền của tu tạo lại đền cho bề thế, khang trang hơn. Khi hội Tam Thánh ra đời, đền thờ Phật – Tiên – Thánh, 3 vị giáo tổ và thờ vọng những vị anh hùng dân tộc đã có công cầm quân chống ngoại xâm như Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão. Tên đền Sướng Thiện hay Tam Giác Động nói lên ý tưởng và tâm nguyện về điều thiện, hành động theo điều thiện. Sau này, tên đền được gọi theo tên thôn: Đền Đào Xá. Chữ Đào chính là tên một dòng họ có người đến khai phá vùng đất này sớm nhất và cũng là họ phát triển đông đúc nhất thời ấy. Thời kỳ 1939 – 1945, Đảng ta vận động đấu tranh cách mạng trong sự khủng bố, lùng sục gắt gao của chính quyền thực dân, đền Đào Xá là một trong những cơ sở cất giấu tài liệu của Đảng bộ Hưng Yên. Trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, nhiều cuộc mít tinh hội họp lớn của xã đã được tổ chức tại đền. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra ác liệt, vùng đất này từng có thời gian bị địch chiếm đóng, đền Đào Xá lại là nơi cán bộ ta đặt chân an toàn để phát triển phong trào, khi thì đóng vai người đến đền cúng lễ, khi lại là người lên đền xin lá thuốc về chữa bệnh cho người nhà. Trong đền có hầm bí mật nuôi giấu cán bộ. Hòn Non bộ đắp nổi giữa hồ nước trong khuôn viên với mục đích cất giấu tài liệu nên được tạo dáng nhiều hang lạch ăn sâu vào giữa khối đá giả sơn trông lạ mắt mà kín đáo. Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, Bộ Tư lệnh Quân khu III đã về đây mở Hội nghị Quân chính bàn việc chống chiến tranh phá hoại của địch và các chủ trương biện pháp chi viện cho chiến trường miền Nam. Tiếp đó, Bộ Y tế lại chọn đền Đào Xá làm địa điểm sơ tán cho xí nghiệp Dược phẩm. Đền Đào Xá còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý, ngoài Hòn Non bộ xây đắp công phu, phải kể đến 24 pho tượng mỗi pho đều có vẻ hấp dẫn riêng. Nhiều đồ tế tự có giá trị điêu khắc như pho kiệu Ngọc Bộ, ngai, cửa võng, câu đối cùng với nhiều cổ vật quý hiếm nh lọ độc bình, lọ hoa, choé, bát hương… Đền Đào Xá, xã Vĩnh Xá được Nhà nước xếp hạng di tích “Lịch sử và nghệ thuật” cấp Quốc gia theo Quyết định số 570, tháng 9/1998. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 1806 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Thanh Sầm

Đình Thanh Sầm toạ lạc trên khu đất cao ráo, thoáng đãng tại thôn Thanh Sầm, xã Đồng Thanh, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Theo thuyết phong thuỷ, đình toạ lạc trên thế đất hình “đầu rồng”, phía trước là một hồ nước lớn, bao bọc quanh đình là con đường lớn tựa “lưng con xà”, tạo nên nét đẹp không gian cho ngôi đình cổ. Với địa thế đó, đình Thanh Sầm được xem như đặt trong thế “đắc địa”, con cháu được hưởng phúc lộc dài lâu. Đình Thanh Sầm là nơi tôn thờ Nhị vị Thành hoàng làng: Hướng Thiện Ninh Quốc Đại vương (Phạm Thiện) và Đạo Quang Vĩnh Yên Đại vương (Phạm Quang) thời vua Hùng Vương. Hai vị có công giúp các vua, các tướng dẹp giặc, thiết lập trật tự đất nước, đem lại cuộc sống ấm no cho nhân dân. Không chỉ vậy, đình Thanh Sầm cùng những di vật còn lưu giữ được tại di tích là nguồn sử liệu vô cùng quý giá trong việc nghiên cứ sự hình thành và phát triển của làng Thanh Sầm. Đình Thanh Sầm có bố cục mặt bằng tổng thể kiểu “Tiền Nhất hậu Đinh” gồm: 05 gian Đại bái, 05 gian Trung từ và 02 gian Hậu cung. Các cấu kiện kiến trúc đều được làm hoàn toàn từ vật liệu gỗ tứ thiết còn đồng bộ, chắc khỏe, bền vững với nhiều mảng chạm khắc đẹp, mang đậm phong cách kiến trúc và mỹ thuật thời Nguyễn. Các mảng chạm thể hiện nhiều đề tài trang trí, các điển tích dân gian vô cùng phong phú và đa dạng như: Tứ linh, tứ qúy, tùng lộc, chim trĩ, lá lật, vân xoắn, cá chép... Tất cả đã phản ánh được tính mỹ thuật cao, tài năng sáng tạo của người nghệ nhân đương thời. Tại đình còn bảo lưu được một số di vật tiêu biểu có giá trị như: Sắc phong (thời Nguyễn), thần tích, đại tự, câu đối, ngai và bài vị, kiệu thờ,... Với những giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích kiến trúc nghệ thuật đình Thanh Sầm đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia (tại Quyết định số 887/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 15 tháng 4 năm 2022). Nguồn Sở văn hóa thể thao và du lịch.

Hưng Yên 1622 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình làng Chuông

Đình làng Chuông là một trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng lớn của làng Chuông xưa, nay là thôn Tiến Phan, thị trấn Nhã Nam. Theo các tài liệu, hiện vật còn lại trong di tích, các nhà nghiên cứu đã xác định đình làng Chuông là một ngôi đình cổ được khởi dựng thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVIII). Ngôi đình tọa lạc trên khuôn viên đất rộng, cao thoáng ở trung tâm làng Chuông. Bố cục mặt bằng di tích được làm theo lối kiến trúc hình chữ đinh gồm 7 gian tiền đình và hai gian hậu cung, ngoảnh hướng Nam. Đình tôn thờ đức Thánh Cao Sơn, Quý Minh đại vương và Trấn Giang Đô Thống. Ngoài ra đình cũng thờ Nàng Giã Đại Thần - một vị nữ tướng của hai Bà Trưng. Sau này vào thời Nguyễn, đình còn thờ một vị phúc Thần là người con của quê hương Nhã Nam, đó là ông Nguyễn Đức Hiên đã công đức tiền của tu sửa đình. Trong những năm đầu của cuộc khởi nghĩa Yên Thế, Hoàng Hoa Thám đã tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng, bàn việc tổ chức những trận đánh lớn chống thực dân Pháp xâm lược và tay sai tại đình làng Chuông. Làng Chuông còn là nơi sinh ra Dương Văn Truật còn gọi là Đề Hậu - một trong những vị tướng tài giỏi, giữ vai trò chủ chốt trong phong trào khởi nghĩa Yên Thế. Ông có tài bắn cung bách phát - bách trúng khiến bọn giặc Cờ Đen do Ngô Côn cầm đầu và sau này là thực dân Pháp và bè lũ tay sai phải kinh hoàng, khiếp sợ khi nhắc đến tên ông. Khi Lương Văn Nắm (Đề Nắm) - người làng Hả giương cao ngọn cờ khởi nghĩa chống thực dân Pháp, Dương Văn Truật gia nhập nghĩa quân, trở thành một trong những vị tướng giỏi giúp Đề Nắm và sau này là Đề Thám tổ chức nhiều trận đánh, gây cho thực dân Pháp nhiều tổn thất. Đình làng Chuông vừa được trùng tu và khánh thành vào ngày 26.10.2023. Bố cục hình chữ đinh, với kết cấu tiền đạo hậu đốc, đại bái 5 gian, hậu cung 3 gian cùng các hạng mục phụ trợ khác. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN TÂN YÊN

Bắc Ninh 2888 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Dương Lâm

Đình Dương Lâm được xây dựng trên một khu đất ráo đẹp đẽ của làng Dương Lâm, xã An Dương, huyện Tân Yên. Đây là ngôi đình cổ thời Lê, xưa tọa lạc ở khu đất Bãi Đình. Vì lý do giặc giã nhiều, nên Hoàng Hoa Thám và nghĩa quân Yên Thế đã bàn với dân làng di chuyển đình về khu đất giữa làng như hiện nay, để tiện trông nom và cũng dễ bề hoạt động. Dương Lâm cũng là quê hương Quận công Dương Đình Bột, Dương Đình Tuấn, Dương Đình Cúc thời Lê - Mạc, Lê Trung hưng và thời Nguyễn. Trong đó Dương Đình Cúc dựng cờ khởi nghĩa chống lại triều đình nhà Nguyễn, ngay tại đình làng mình. Ông kéo quân lên xây dựng căn cứ khởi nghĩa ở núi Hàm Rồng thuộc Đức Lân, huyện Phú Bình (Thái Nguyên) vào năm 1826. Nghĩa quân đã hoạt động khắp các huyện Yên Thế, Hữu Lũng, Võ Nhai, Phú Bình, tổ chức nhiều cuộc đánh du kích làm quân triều đình khốn đốn. Cuộc khởi nghĩa kéo dài 20 năm. Mùa xuân năm 1846 Đề Cúc và các tướng lĩnh về dự hội làng Lềnh ở chân núi Hàm Rồng thị bị quân triều đình phục kích, hai bên đánh nhau quyết liệt hai tướng của Dương Đình Cúc bị chết, ông bị thương, chạy đến đầu làng Lan Thượng thì bị chết. Dân làng thương tiếc an táng ông về lập miếu thờ gọi là Dương Đình Cúc. Sau đời Dương Đình Cúc khởi nghĩa, làng Dương Lâm nổi lên ông Dương Văn Hậu (còn gọi là cụ Cai Hậu) là người giúp Hoàng Hoa Thám rất đắc lực từ 1885-1895. Truyền tích về cụ Cai Hậu còn rất nhiều ở Dương Lâm. Để đảm bảo an toàn cho các tướng lĩnh và nghĩa quân Yên Thế, cụ Cai Hậu đã cho đào một hầm bí mật từ hậu cung đình Dương Lâm xuyên ra bờ ao rồi đi nơi khác. Đến nay dấu vết vẫn còn. Suốt trong cuộc Khởi nghĩa Nông dân Yên Thế chống thực dân Pháp kéo dài 30 năm trời, nhiều trai làng Dương Lâm đã ra nhập nghĩa quân Yên Thế như: Dương Văn Cảnh, Dương Văn Hành, Dương Văn Đôi, Dương Văn Vạn... lập nhiều chiến công ở trận Trại Cốt (Yên Thế) Yên Phụ (Yên Phong) Đông Lỗ (Hiệp Hoà) Hố Chuối, Đồn Hom (Yên Thế)... Trong những năm tháng ấy, đình Dương Lâm là nơi đi về của nghĩa quân. Làng Dương Lâm vẫn là pháo đài vững chắc của nghĩa quân Yên Thế ngay trước dinh phủ của Pháp và tay sai ở Nhã Nam. Cũng trong thời gian ấy, Đề Thám đã gửi con trai cả của mình đến Dương Lâm học cụ Cai Hậu. Điều đó chứng tỏ tình cảm rất thân thiết giữa nghĩa quân với làng Dương Lâm. Từ khi đình chuyển về giữa làng, Đề Thám lại cùng cụ Cai Hậu đã trồng cây Dã Hương ở trước sân đình làm kỷ niệm. Cây Dã Hương sau này trở thành cây cổ thụ tỏa bóng mát che nắng cho dân làng và ru mãi những bài ca đẹp về lịch sử làng Dương Lâm. Đáng tiếc là nó đã không còn trong năm gần đây. Do không làm gì nổi nghĩa quân Yên Thế, thực dân Pháp và tay sai kéo về Dương Lâm tra khảo cụ Cai Hậu. Song vốn là người gan góc nhất làng và hết lòng vì nghĩa quân Yên Thế, chúng đã không khuất phục được con người của cụ Cai Hậu. Thời kỳ hòa hoãn lần thứ hai với thực dân Pháp (1897-1909) cụ Đề Thám thường về thăm Dương Lâm, thăm đình Dương Lâm với một tình cảm đặc biệt. Đình Dương Lâm chứa đựng những giá trị văn hoá, giá trị lịch sử đáng trân trọng là biểu tượng đẹp đẽ của Dương Lâm và là nơi tưởng niệm các anh linh đã vì mảnh đất này mà gây dựng, mà chiến đấu. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN TÂN YÊN

Bắc Ninh 2981 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Nam Thiên

Nhân lễ hội Đình Phố, thị trấn Nhã Nam, huyện Tân Yên (Bắc Giang) vừa tổ chức lễ đón nhận Bằng công nhận chùa Nam Thiên là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia đặc biệt. Đây là di tích nằm trong hệ thống di tích cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Chùa Nam Thiên (còn gọi là chùa Phố) xây dựng năm 1882 (nay thuộc thị trấn Nhã Nam ). Cổ xưa chùa thuộc làng Cầu. Khi làng Cầu bị giặc Cờ Đen triệt hạ cuối thế kỷ XIX, chùa do làng Chuông kiêm quản. Từ năm 1885 thực dân Pháp lập đồn Nhã Nam và đặt phủ lỵ tại đây thì chùa chuyển về phố. Chùa Phố - Nam Thiên tự nằm bên Đồi Phủ, chứng kiến những sự kiện quan trọng liên quan tới phong trào khởi nghĩa Yên Thế. Tháng 1-1989 di tích chùa Phố - Nam Thiên tự được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa. Ngày 10-5-2012, Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận Di tích chùa Phố - Nam Thiên tự là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia đặc biệt. Trong khuôn khổ lễ hội còn diễn ra nhiều hoạt động văn hóa thể thao như: thi nấu cơm, thi đấu cầu lông, trò chơi dân gian, tết trồng cây... thu hút đông đảo cán bộ, nhân dân tham gia./. NGUỒN: INET

Bắc Ninh 2806 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Nội

Đình Nội thuộc xã Việt Lập. Di tích được xếp hạng cấp quốc gia. Đình được xây dựng từ thời Lê Dụ Tông, niên hiệu Vĩnh Thịnh (1705-1719) trên gò đất nổi thuộc cánh đồng trung tâm làng. Đình do dân 3 giáp: Tây, Mỹ, Trong của Làng Nội xây dựng nên dân gọi là Đình Nội. Hiện này Đình Nội, thuộc làng Nội Hạc, xã Việt Lập. Đình được xây dựng từ thời Lê Dụ Tông, niên hiệu Vĩnh Thịnh (1705-1719) trên gò đất nổi thuộc cánh đồng trung tâm làng. Đình do dân 3 giáp: Tây, Mỹ, Trong của Làng Nội xây dựng nên dân gọi là Đình Nội. Đình Nội được xây dựng ở một gò đất cao thuộc đất giáp Trong giữa làng Lý và làng Nội hiện nay. Đình do dân ba giáp: Tây, Mỹ, Trong của làng Nội xây dựng nên dân cũng gọi là đình Nội. Khi đình làm xong dân đặt tên là "Tiên Đình" hai chữ ấy được viết ra chữ Hán rồi xây biển trên bờ nóc cho khắc đắp nổi để ai cũng nhìn thấy. Thông thường ở các nơi, cứ khi làm xong đình thì dân cho khắc bia ghi chép việc xây dựng đình để lại cho đời sau biết việc tiền nhân đã làm. Thế nhưng ở làng Nội xưa các cụ lại không làm thế mà căn cứ những ai đóng góp gì thì cho thợ mộc đục ngay lên gỗ ấy - bất di bất dịch - Thế là đình Nội có một bản lai lịch rõ tới từng chi tiết mà không đình nào có được. Đình Nội làm nên để thờ Thánh Cao Sơn – Quý Minh, khoảng thế kỷ XIX trong vùng có giặc Cờ Đen – quân Cờ Đen kéo về quấy phá tàn sát nhiều làng, xã ở Yên Thế. Làng Nội bị chúng đánh phá, dân làng chống lại không nổi nhưng cũng hạ được nhiều tướng Tàu ở ngay cạnh đình. Dân làng nội bị bắt đi, bị mất tích..làng xóm tiêu điều sơ xác. Ngôi đình không bị tàn phá nhưng đã chứng kiến những sự kiện tàn sát đó. Tình hình đó kéo dài đến cuối thế kỷ XIX dân làng không hiểu cho rằng tại hướng đình nên trong làng lục đục mất đoàn kết. Đến khi Hoàng Hoa Thám đứng lên cầm quân chống pháp, có quan hệ mật thiết với làng Nội, nghĩa quân thường qua lại nơi đây họp bàn với các Cụ Đốc Tuân (làng Lý), Chánh Hạch (Làng Nội), Tổng Lò (Văn Miếu)…biết chuyện hướng đình, Đề Thám với uy tín của mình đứng ra xoay lại hướng đình cho làng Nội. Đình Nội là một trong những ngôi đình lớn của huyện, hiện vẫn giữ được dáng vẻ và kiến trúc cổ xưa. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN TÂN YÊN

Bắc Ninh 2683 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Đông Trước

Đình Đông Trước thuộc địa phận thôn Đông Trước, xã Mai Đình, huyện Hiệp Hoà (Bắc Giang) có nhiều nét độc đáo, được công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật Quốc gia năm 2014. Đình Đông Trước là công trình tín ngưỡng của nhân dân thôn Đông Trước, xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa. Đình Đông Trước có niên đại khởi dựng từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVIII) và được trùng tu vào thời Nguyễn (thế kỷ XIX). Đây là công trình tín ngưỡng tiêu biểu của nhân dân địa phương được dựng lên làm nơi thờ các vị Thành hoàng làng Cao Sơn, Quý Minh Đại Vương và Bạch Tượng. Hai vị Cao Sơn, Quý Minh vốn là thuộc tướng thời vua Hùng Vương thứ 18, có công giúp vua Hùng Duệ Vương (thế kỷ III TCN) phá tan giặc Thục Phán đến xâm lăng. Bạch Tượng có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân (thế kỷ X) thống nhất đất nước. Đình Đông Trước có bố cục theo lối “tiền nhất hậu công” gồm tòa tiền đình, tòa đại đình, dải ống muống và hậu cung. Di tích là công trình có giá trị kiến trúc nghệ thuật cao, mang nét đặc trưng của hai nền nghệ thuật kiến trúc thời Lê Trung Hưng-Nguyễn. Trong di tích hiện còn lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật quý như: 5 tấm bia đá thời Lê Trung Hưng và thời Nguyễn (bia Hậu Thần được lập sớm nhất tại đình vào năm 1722 niên đại Bảo Thái thứ 3, muộn nhất vào năm 1916 niên đại Khải Định); kiệu thờ, bản văn, 4 ngai thờ thời Nguyễn, chấp kích, đài thờ, mâm bồng, nhang án, chiêng đồng, bát hương... Trong đó, 5 tấm bia đá thời Lê Trung Hưng và thời Nguyễn khắc văn tự Hán với nội dung ghi về việc lập Hậu Thần, việc công đức tu sửa đình... có ý nghĩa tích cực trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về lịch sử di tích và một thời kỳ đã qua của nhân dân trong vùng nói riêng và của dân tộc nói chung. Đình Đông Trước là nơi thờ các vị Đức thánh Cao Sơn, Quý Minh Đại Vương, Bạch Tượng làm Thành Hoàng làng. Hai vị Cao Sơn, Quý Minh vốn là thuộc tướng thời vua Hùng Vương thứ 18, có công giúp Hùng Duệ Vương (thế kỷ III TCN) phá tan giặc Thục Phán đến xâm lăng, mang lại bình yên cho đất nước. Công lao của các ngài được các sử thần xưa biên ghi trong quốc sử, ngọc phả, thần tích, sắc cho nhân dân nhiều nơi lập đình, đền thờ phụng, trong đó có đình Đông Trước, xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa. Bạch Tượng vốn là người ở châu Hoan (tỉnh Nghệ An ngày nay). Vào thế kỷ X, khi Đinh Bộ Lĩnh dấy quân ở Hoa Lư, ông đem quân đến giúp sức dẹp được loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, về già ông đem quân về Động Phỉ rồi qua đời ở đó. Vì có công với dân, với nước nên ông được tôn thờ trong các đình làng. Đình Đông Trước là công trình kiến trúc cổ kính được khởi tạo vào thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVIII), trùng tu lớn vào thời Nguyễn (thế kỷ XIX). Trải qua hơn 200 năm, nhiều mảng chạm trổ, điêu khắc điển hình cho nghệ thuật kiến trúc thời Lê Trung Hưng, thời Nguyễn hiện vẫn còn được bảo lưu tại di tích. Chính quyền cùng nhân dân địa phương luôn quan tâm, ý thức ghi giữ, tu sửa tôn tạo ngôi đình thêm khang trang, tố hảo nhưng vẫn giữ được dáng vẻ cổ kính, uy linh. Trong di tích hiện nay còn lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật quý rất có giá trị: 5 tấm bia đá thời Lê Trung Hưng và thời Nguyễn, ngai thờ, bảng văn, sắc phong, chấp kích, kiệu thờ, bát hương, nhang án... Trải qua nhiều thế kỷ, ngôi đình hiện vẫn là trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, nơi tổ chức lễ hội truyền thống của người dân thôn Đông Trước. Trong ngày hội tổ chức nhiều trò chơi dân gian cổ truyền mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc: Chọi gà, đánh đu, kéo co... Bên cạnh đó vào những ngày rằm, mồng một và khi làng diễn ra sự kiện trọng đại thì người dân đều đến ngôi đình làng thắp nén hương thơm thành tâm dâng lên Thành Hoàng làng cầu cho vạn vật tốt tươi, người người khỏe mạnh, bình an. NGUỒN: Ủy ban nhân dân huyện Hiệp Hòa

Bắc Ninh 2768 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình thôn Nguyễn

Đình thôn Nguyễn: được khởi tạo thời Lê. Đình nhìn về hướng Nam, thờ thánh Tam Giang và Quận công Nguyễn Đình Chính. Vị trí đình và chùa gần nhau, theo lối đình trước chùa sau “Tiền Thánh, hậu Phật”. Đình có bố" cục hình chữ Đinh (T) với 3 gian tiền tế, 2 gian chái, 3 gian hậu cung - kiểu thượng con chồng đấu kê trụ giá chiêng, hạ con chồng cốn kê. Các bức cốn, kẻ hiên, đầu dư trên cột được chạm khắc tinh xảo. Trong đình có đồ thờ: kiệu bát cống, kiệu song hành, tàn lọng, chấp kích, bát bửu, chiêng chông, long ngai, bài vị, ngọc phả, bia đá... Ngày 31/10/2013, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định số 3825/QĐ-BVHTTDL xếp hạng đình Nguyễn là di tích Lịch sử - văn hóa. NGUỒN: TRAVEL NEWS

Bắc Ninh 2839 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Chợ Vân

Đình Chợ Vân xưa thuộc tổng Hoàng Vân, phủ Bắc Hà, xứ Kinh Bắc, nay thuộc thôn Hoàng Liên, xã Hoàng An (Hiệp Hòa). Đình được xây dựng từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII) và được tu sửa ở thời Nguyễn (thế kỷ XIX). Đình chợ Vân được hạ giải vào năm 1984. Thời kỳ vận động Cách mạng Tháng Tám năm 1945 tại đình Chợ Vân diễn ra nhiều cuộc mít tinh, tuyên truyền lớn do cán bộ cách mạng tổ chức và chỉ đạo thực hiện. Trên đà thắng lợi ở Xuân Biều (xã Xuân Cẩm) và Trung Định (xã Mai Trung), nhân dân vô cùng phấn khởi, khí thế cách mạng sục sôi, uy thế của Mặt trận Việt Minh ngày càng nâng cao. Tại đình Chợ Vân, ngày 15/3/1945, đồng chí Lê Thanh Nghị, khi ấy là Ủy viên Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ và đồng chí Nguyễn Trọng Tỉnh, Bí thư Ban cán sự tỉnh chỉ đạo Chi bộ Hoàng Vân và Mặt trận Việt Minh địa phương tổ chức cuộc tuyên truyền vào ngày chợ phiên nhằm phát động cao trào kháng Nhật cứu nước. Nội dung cuộc diễn thuyết nêu rõ tinh thần cơ bản của Nghị quyết hội nghị Ban Thường vụ Trung ương (9/3/1945). Các đồng chí đã phân tích tình hình thế giới, trong nước, chỉ rõ kẻ thù chính của nhân dân ta trước mắt lúc này là phát xít Nhật và phát động quần chúng phá kho thóc của Nhật, Pháp giải quyết nạn đói. Tiếp đó, để biểu dương lực lượng, ngày 16/3/1945, Ban cán sự tỉnh tổ chức cuộc mít tinh lớn tại đình Chợ Vân. Sau cuộc mít tinh, tự vệ chiến đấu, nhân dân kéo đi phá kho thóc đồn điền. Sự kiện này tác động mạnh mẽ tới phong trào cách mạng ở các vùng xung quanh, góp phần vào sự nghiệp cách mạng chung của cả nước. Theo các bậc cao niên và lãnh đạo địa phương, gần 60 năm trước, ngôi đình là điểm dạy, học của thôn, xã. Năm 1965, 1966, trong chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, ngôi đình là nơi chứa các linh kiện máy móc của lực lượng phòng không không quân. Ngày 10 tháng Giêng hằng năm, địa phương tổ chức hội đình Chợ Vân. Trong ngày hội có nhiều hoạt động như hát quan họ, các trò chơi dân gian, thi đấu bóng chuyền hơi, cờ tướng, kéo co… Ngoài ra, vào ngày 10 tháng 4 âm lịch hằng năm có lễ cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, dân làng khỏe mạnh. Các nghi lễ này được khôi phục từ năm 2012 đến nay, sau 66 năm bị gián đoạn. Trải qua thời gian dài, song chợ Vân vẫn giữ được giá trị văn hóa truyền thống, trở thành nơi mua bán hàng hóa của người dân. Ngoài chiêm ngưỡng hệ thống di tích lịch sử, đến chợ Vân du khách bị cuốn hút bởi nhiều đặc sản của địa phương như trám đen Hoàng Vân, bánh chưng. Chợ họp vào các ngày 2, 4, 7, 9 âm lịch. Những năm qua, tại đình Chợ Vân diễn ra nhiều hoạt động báo công dâng Bác, kết nạp đoàn viên, đội viên, phát động lễ ra quân của đoàn thanh niên, các nhà trường... Qua đó giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, lòng yêu nước, niềm tự hào cho thế hệ trẻ. NGUỒN: Cổng thông tin điện tử UBND Xã Mai Đình

Bắc Ninh 2958 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Vân Xuyên

(BGĐT) - Tọa lạc tại xóm Trung, làng Vân Xuyên, xã Hoàng Vân (Hiệp Hòa), đình Vân Xuyên là trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, tôn thờ người có công với dân, với nước đồng thời có ý nghĩa lịch sử quan trọng thời kỳ tiền khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đây là một trong 8 điểm thuộc Di tích An toàn khu II (ATK II) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích lịch sử quốc gia đặc biệt. Đình Vân Xuyên được khởi dựng từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII-XVIII). Hiện nay, đình còn bảo lưu được nhiều nét kiến trúc cổ, mang nét đặc trưng của ngôi đình vùng châu thổ Bắc Bộ với nhiều các hạng mục: Nghi môn, tả hữu vu, sân vườn và khu đình chính có bố cục mặt bằng kiến trúc kiểu chữ đinh (Đại đình và Hậu cung). Tòa Đại đình được tạo bởi 3 gian 2 chái với 4 mái đao cong. Bờ nóc, bờ dải xây gạch phủ vữa, chính giữa bờ nóc đắp đề tài lưỡng long chầu nhật, bốn xung quanh đình được bưng ván gỗ. Gian giữa đình tạo lòng giếng, hai bên còn lại có ván sàn gỗ. Hệ thống khung gỗ của đình được tạo bởi 6 vì, kết cấu các vì được liên kết theo lối truyền thống kiểu thượng con chồng giá chiêng, hạ con chồng đấu kê, tiền kẻ hậu bẩy, với các mảng chạm khắc mang đặc trưng phong cách thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII- XVIII). Tòa Hậu cung có 2 gian nối vuông góc với Đại đình. Hậu cung được ngăn cách bởi lớp cửa bức bàn và thượng song hạ bản. Trong Hậu cung bài trí khám thờ, hương án, sập thờ, bài vị được chạm khắc tinh xảo, sơn thếp công phu. Thời kỳ tiền khởi nghĩa, đình Vân Xuyên là địa điểm ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng: Ngày 25/2/1945, đội tự vệ làng Vân Xuyên được thành lập; ngày 15/3/1945, các đồng chí Lê Thanh Nghị, Nguyễn Trọng Tỉnh đã chỉ đạo Chi bộ Đảng và Mặt trận Việt Minh ở Hoàng Vân tổ chức mít tinh tuyên truyền xung phong, tuyên bố thủ tiêu chính quyền địch, thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Vân Xuyên với sự tham gia của hàng trăm người với sự bảo vệ của các đội tự vệ chiến đấu ở Hoàng Vân, Ngọc Thành và ấp Ba Huyện; ngày 1/6/1945, tự vệ tổng Hoàng Vân cùng lực lượng vũ trang tỉnh Bắc Giang đã tập trung ở đình Vân Xuyên tiến vào huyện lỵ cướp chính quyền, thành lập chính quyền cách mạng. Với giá trị lịch sử tiêu biểu, năm 1994, đình Vân Xuyên được Bộ Văn hóa-Thông tin xếp hạng di tích quốc gia năm 1994; đến năm 2020, được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích lịch sử quốc gia đặc biệt ATK II. NGUỒN: Báo Bắc Giang.

Bắc Ninh 3017 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật