Thành cổ Nghị Lang Thành cổ Nghị Lang hay còn gọi là đền Phúc Khánh nằm ở thung lũng Phố Ràng, thuộc huyện Bảo Yên, Lào Cai, được công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 2002. Thành cổ Nghị Lang là điểm linh thiêng thờ các vị Chúa Bầu, mang dấu tích oanh liệt hùng cứ một phương chống nhà Mạc, bảo vệ biên cương của các chúa Bầu bảo vệ nhân dân, bảo vệ đất nước. Lễ hội thờ cúng Chúa bầu diễn ra ngày 10/1 âm lịch hàng năm, nhân dân tụ họp lại để tưởng nhớ công ơn bảo vệ nước của các vị chúa Bầu. NGUỒN: Du lịch Việt Nam
Lào Cai 1682 lượt xem
Đền Bảo Hà Nhắc đến huyện Bảo Yên thì không ai không biết đến đền Bảo Hà, một trong những địa chỉ thu hút khách thập phương đông nhất của huyện này. Đền Bảo Hà thờ thần vệ quốc Hoàng Bẩy, một vị anh hùng miền sơn cước đánh giặc giữ buôn làng. Đền Bảo Hà rất uy nghi, tĩnh mặc, phong cảnh thiên nhiên nơi đây lại hữu tình: trên bến, dưới thuyền, còn xung quanh là núi rừng bao la, rộng lớn một màu xanh mướt. Hội chính đền của Bảo Hà được tổ chức ngày 17 tháng 7 âm lịch hàng năm – tức ngày giỗ tướng Hoàng Bảy, thu hút đông đảo du khách trong và ngoài vùng đến tham dự. Trong lễ hội này có tổ chức rước kiệu, tế thần, dâng hương tưởng niệm, cùng các hoạt động văn hoá - thể thao mang đậm chất lễ hội văn hóa Việt Nam. Những ngày thường - đặc biệt là vào mùa xuân khách thập phương trong cả nước vẫn thường xuyên tụ họp tại đây để thắp hương tưởng niệm, cầu an, cầu lộc, làm không khí ở đền vui tươi hẳn lên.
Lào Cai 1731 lượt xem
Chùa Ông hay có tên gọi khác là Bản Tịch tự, toạ lạc tại thôn Bình Lương, xã Tân Quang, huyện Văn Lâm. Ngôi chùa mang vẻ đẹp cổ kính, linh thiêng được xây dựng từ thời vua Lý Thần Tông đến nay đã gần 1000 năm tuổi. Đây là niềm tự hào của người dân Văn Lâm nói riêng và là di tích lịch sử văn hóa có giá trị lâu đời của xứ nhãn Hưng Yên. Cách trung tâm Thủ đô Hà Nội khoảng 19km, dọc theo tuyến Quốc lộ 5 hướng Hà Nội - Hải Phòng, rẽ phải vào thôn Bình Lương, xã Tân Quang (huyện Văn Lâm) là ngôi chùa cổ được nhân dân nơi đây gọi là chùa Ông. Theo văn bia của chùa (nay chỉ còn thác bản hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm), ngôi chùa được khởi dựng dưới thời vua Lý Thần Tông (1128 - 1138). Văn bia mang ký hiệu 5527 - 5528, trên trán bia đề: Bản Tịch tự bi minh, niên đại bia đề thời Lê Chính Hòa thứ 20 (1644), nội dung bia ghi việc thờ đức Thiền sư Từ Đạo Hạnh và ý nghĩa việc đặt tên chùa là chùa Bản Tịch. Chùa Ông dưới thời Lê là nằm trên địa phận hai thôn Bình Lương, Lương Xá, xã Đình Loan, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An thuộc xứ Kinh Bắc. Năm Minh Mạng thứ 13 (1834) đổi thành tỉnh Bắc Ninh. Tới cuối đời Nguyễn mới gọi là huyện Văn Lâm thuộc tỉnh Hưng Yên. Trong chùa hiện còn tượng đồng Thiền sư Từ Đạo Hạnh, vua Lý Thần Tông (đời thứ 5 nhà Lý - cũng là hiện thân Từ Đạo Hạnh sau sự trút xác ở núi Thầy). Chùa được bố trí hài hòa cân xứng theo kiểu chữ Tam bao gồm các hạng mục: Tiền đường, trung từ và hậu cung. Năm 1938, chùa được trùng tu, tôn tạo lại, kết cấu các vì theo kiểu chồng rường bào trơn có điểm hoa văn. Toàn bộ khung, cột của ngôi cổ tự được làm bằng gỗ lim rắn chắc, kết hợp với kiến trúc cổ chạm khắc công phu tạo cho tòa tiền đường một thế vững chắc mang tính nghệ thuật cao. Đến đây, du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp cổ xưa của ngôi chùa mang kiến trúc nghệ thuật rất công phu và độc đáo. Bước vào cổng chùa là không gian an yên, tĩnh tại với mái chùa rêu phong trầm mặc. Theo sách sử, chùa Ông được vua Lý Thần Tông xây dựng vào mùa xuân. Do vậy, mỗi dịp xuân về, nhân dân thôn Bình Lương nói riêng và nhân dân xã Tân Quang cùng du khách thập phương lại tụ hội về đây mở hội, làm lễ dâng hương để tưởng nhớ đến người đã có công đánh giặc giữ nước, dựng chùa. Lễ hội truyền thống chùa Ông diễn ra vào 3 ngày, từ ngày 7 tháng 3 đến ngày 9 tháng 3(Âm lịch) trong đó ngày 9 tháng 3 là hội chính. Năm 2001, Chùa được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia, là niềm tự hào của người dân Văn Lâm. Nguồn Cục di sản văn hóa .
Hưng Yên 3072 lượt xem
CTTĐT - UBND tỉnh Lào Cai vừa ban hành văn bản số 1396/QĐ-UBND ngày 7/6/2024 Quyết định xếp hạng Khu vực đỉnh Fansipan là di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh. Theo đó, UBND tỉnh Lào Cai xếp hạng Khu vực đỉnh Fansipan, xã Hoàng Liên, thị xã Sapa, tỉnh Lào Cai là di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh. Khu vực bảo vệ di tích được xác định theo Biên bản khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích và Bản đồ khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích trong hồ sơ khoa học di tích. UBND tỉnh giao cho Sở Văn hóa và Thể thao, UBND thị xã Sapa xây dựng phương án bảo vệ, quản lý, tu bổ và sử dụng di tích danh lam thắng cảnh Khu vực đỉnh Fansipan theo đúng quy định hiện hành của nhà nước. Khu vực đỉnh Fansipan, thôn Sín Chải, xã Hoàng Liên, thị xã Sa Pa là khối núi cao nhất trên dãy Hoàng Liên Sơn, có biệt danh “Nóc nhà Đông Dương” với độ cao 3.143m, hình thành cách ngày nay khoảng 260-250 triệu năm. Năm 1905, đoàn khảo sát người Pháp đã tổ chức thám hiểm và đặt mốc tiêu đầu tiên trên khu vực đỉnh Fansipan để thiết lập tọa độ của các điểm trắc địa trong khu vực. Từ đây, Fansipan xuất hiện trong bản đồ và tư liệu của người Pháp ghi chép về Sapa, trở thành một địa điểm du lịch cho những người ưa thích phiêu lưu, mạo hiểm. Khu vực đỉnh Fansipan trở thành thương hiệu du lịch Sa Pa, được đông đảo du khách trong nước, du khách quốc tế biết đến và mong muốn chinh phục NGUỒN: Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai
Lào Cai 1845 lượt xem
Thiên Long, xã Tả Ván Chư, huyện Bắc hà, tỉnh Lào Cai đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích quốc gia tại Quyết định số 3578/QĐ-BVHTTDL, 3579/QĐ-BVHTTDL ngày 18/10/2013. Danh lam thắng cảnh Động Thiên Long, xã Tả Van Chư, huyện Bắc Hà, thường được người địa phương gọi là “Hang Rồng”. Động Thiên Long nằm sâu trong lòng Núi Rồng, ở độ cao trên 1000m so với mực nước biển, còn giữ được vẻ đẹp nguyên sơ, kỳ bí với nhiều tầng lớp thạch nhũ lớn, kỳ vĩ. Tổng chiều dài của động khoảng 470 m, được chia làm 3 tầng khác nhau, mỗi tầng có một đặc thù riêng. Tầng một có chiều dài khoảng 115m, mặt bằng rộng, nền được tạo thành bởi những tảng đá lớn, bao phủ lên là một lớp đất trầm tích màu đen, xốp, vòm hang của tầng 1 cao thoáng (khoảng 8m - 10m) trên đó có những mảng nhũ đá lớn, các mảng thạch nhũ được thiên nhiên kiến tạo với nhiều hình thù đa dạng phong phú, vách động với những lớp thạch nhũ bám vào thành, trải qua thời gian dài kiến tạo, đã làm nên những bức tranh thủy mặc trong sáng, mờ ảo. Tầng hai của động có chiều dài ngắn hơn tầng một, nhưng có lượng nhũ đá nhiều hơn và phong phú hơn về hình dáng, kích cỡ và màu sắc, tầng 2 có nền bằng phẳng, lòng hang rộng vòm cao nên đi lại thuận lợi. Tầng ba của động dài và có độ dốc khá lớn, lòng hang rộng có nhiều thạch nhũ hình thù khác nhau, toàn bộ tầng 3 giống như một cái túi lớn, đặc biệt ở đây có lớp trầm tích phủ dầy lên nhau. Khu vực bảo vệ di tích được xác định theo biên bản và bản đồ khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích trong hồ sơ. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch yêu cầu UBND các cấp nơi có di tích được xếp hạng trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với di tích theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa. NGUỒN: Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai
Lào Cai 1764 lượt xem
Ruộng bậc thang Sa Pa thuộc xã Lao Chải, xã Tả Van, xã Hầu Thào, huyện Sa Pa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích quốc gia tại Quyết định số 3578/QĐ-BVHTTDL, 3579/QĐ-BVHTTDL ngày 18/10/2013. Di tích quốc gia - danh lam thắng cảnh Ruộng bậc thang Sa Pa nằm ở thung lũng Mường Hoa, cách thị trấn Sa Pa gần 10 km về phía Tây Nam. Đây là quần thể ruộng bậc thang lớn nhất Việt Nam, rộng 935,4 ha, thuộc địa bàn các xã Lao Chải, Tả Van, Hầu Thào huyện Sa Pa. Năm 2009, Tạp chí Du lịch Travel and Leisure của Mỹ đã bình chọn danh thắng Ruộng bậc thang Sa Pa nằm trong top 7 ruộng bậc thang đẹp kỳ vĩ nhất châu Á và thế giới. NGUỒN: Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai
Lào Cai 1602 lượt xem
Ngày 16/5/2024, Bộ trưởng Bộ văn hóa Thể thao và du lịch đã ký ban hành quyết định số 1328/Quyết Định - Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch về việc xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia đối với Đình Đại Hạnh, xã Hoàn Long, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Đình Đại Hạnh là một trong số rất nhiều di tích trong tỉnh Hưng Yên thờ Đức Thánh Chử Đồng Tử - Tiên Dung công chúa và Tây Sa công chúa thời Hùng Vương thứ 18. Đây là Tam vị Thánh hóa được liệt vào hàng Tứ bất tử trong hệ thống linh thần Việt Nam. Đồng thời, chúng ta có thể coi Chử Đổng Tử là ông tổ của ngành thương mại Việt Nam, là người đầu tiên mở mang việc buôn bán, thông thương Quốc tế. Đình Đại Hạnh được khởi dựng từ sớm, trùng tu vào các thời Hậu Lê, Nguyễn. Hiện tại đình có bố cục mặt bằng tổng thể hình chữ Công gồm tòa Đại bái 03 gian 02 chái, Ống muống 01 gian và Hậu cung 03 gian. Các cấu kiện kiến trúc được làm bằng gỗ với nhiều mảng chạm khắc đẹp, đặc biệt là tòa Đại bái vẫn giữ được gần như nguyên vẹn dấu ấn kiến trúc chạm khắc tiêu biểu thời Hậu Lê thể hiện nhiều đề tài trang trí, các điển tích dân gian vô cùng phong phú và đa dạng như: tứ linh, tứ quý, tùng lộc, chim trĩ,... mang đậm phong cách kiến trúc và mỹ thuật thời Hậu Lê, thời Nguyễn. Ngoài ra, tại đình còn lưu giữ nhiều di vật tiêu biểu có giá trị như: Đại tự, câu đối,… Theo quyết định, Khu vực bảo vệ di tích được xác định theo Biên bản và Bản đồ khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích trong hồ sơ. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch giao Uỷ Ban Nhân Dân các cấp nơi có di tích được xếp hạng, trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình, thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với di tích theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa. Nguồn Sở văn hóa thể thao và du lịch.
Hưng Yên 2624 lượt xem
Với vẻ đẹp quyến rũ của các nhũ đá do tạo hóa sinh ra với nhiều hình thù khác nhau: Từng nhũ đá to bằng củ xu hào hay cái bắp cải nối tiếp nhau tạo thành vòng tròn tỏa xuống như chùm đèn pha lê của ngôi nhà biệt thự sang trọng; hay tạo thành chiếc cột chống trời với nhiều nét hoa văn tỉ mỉ; có khi là hình tượng Phật “Quan Thế Âm Bồ tát” và “Phật tổ Như Lai” đang ngồi tụng kinh. Thỉnh thoảng lại xuất hiện những cánh tay bằng đá giống những tua con sứa vươn dài đang bơi mà anh bạn tôi đi cùng vô tình gõ vào đã toát lên những âm thanh du dương như tiếng đàn ta lư của đồng bào dân tộc Vân kiều. Do đó, có người đã ví hang Rồng như hình ảnh “Động Thiên Cung” của vịnh Hạ Long thu nhỏ trên Cao nguyên đá; với hai hang động có tổng diện tích khoảng chừng 300m2 nhưng đã làm níu chân nhiều du khách chẳng muốn về. Chính vẻ đẹp quyến rũ như vậy, mà hang Rồng đã được Bộ VHTTDL xếp hạng di tích quốc gia. NGUỒN Báo điện tử Dân Việt
Tuyên Quang 2876 lượt xem
Theo Thần tích, Thần sắc của huyện Kim Động và những tư liệu tại địa phương, đình Thọ Nham Hạ thờ Thánh Tam Giang hay còn gọi là Tam Giang Đại Vương. Ông sinh ra trong một gia đình có 5 anh em vào đời vua tiền Lý Nam đế, từng theo Triệu Quang Phục đánh giặc Lương. Đình được khởi dựng từ rất sớm. Ban đầu, ngôi đình có quy mô nhỏ, làm bằng vật liệu tranh tre, nứa, lá đơn giản. Trải qua thời gian, đình được trùng tu, tôn tạo nhiều lần dưới thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Dấu ấn kiến trúc hiện tại của ngôi đình là từ lần trùng tu lớn dưới thời Nguyễn niên hiệu Bảo Đại thứ 15 (1940) với quy mô kiến trúc bề thế, gồm nhiều hạng mục công trình: Đại bái, Hậu cung, nghi môn, giếng đình, giải vũ, nhà bia,... Nghi môn đình Thọ Nham Hạ gồm ba cổng: Cổng giữa xây dạng cột trụ biểu rộng và cao hơn hẳn so với hai cổng phụ. Đỉnh cột trụ chính đắp “tứ phượng tụ vĩ” (4 con chim phượng chụm đuôi vào nhau). Phần ô lồng đèn trang trí tứ linh (long, lân, quy, phượng), hổ phù ngậm chữ Thọ. Thân trụ xây vuông, đắp gờ, kẻ nổi và đắp câu đối chữ Hán. Hai cổng phụ làm kiểu chồng diêm hai tầng tám mái, đường bờ nóc đắp con kìm ngậm đầu bờ nóc, chính giữa là hình tượng mặt trời với các đao lửa. Mái trên và dưới đắp giả ngói ống, các đầu đao trang trí hoa văn mềm mại. Phần cổ diêm đắp nổi chữ Hán. Thân cổng phụ xây vuông, đắp gờ, kẻ nổi và đắp câu đối chữ Hán. Qua khoảng sân rộng là đến khu thờ chính có kết cấu kiểu chữ Đinh (丁) gồm 05 gian 02 chái Đại bái và 03 gian Hậu cung, mặt tiền hướng Tây Nam, các cấu kiện kiến trúc được làm bằng gỗ mang đậm nét kiến trúc thời Nguyễn. Đại bái làm kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp bằng ngói ta. Bờ nóc là một đường xây bằng gạch, phủ vữa áo tạo những đường gờ chạy song song. Trung tâm bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nhật, rồng uốn ba khúc khỏe mạnh, đầu vươn cao. Kết thúc đường bờ nóc là hai đấu vuông thót đáy và hai con kìm dạng đầu rồng há miệng ngậm bờ nóc, đuôi là một vân xoắn có dạng dấu hỏi “?” ngược lớn chạy từ đầu vươn ra phía sau, toàn thân chầu về phía trung tâm bờ nóc. Bờ dải được xây vuông góc với đường bờ nóc theo kiểu giật cấp để nguyên không trang trí. Cuối bờ dải là hai bức tường lửng và hai cột trụ biểu. Cột đồng trụ cao 7m, đỉnh cột đắp long cuốn ổ cách điệu quả dành dành, 4 chân quỳ, 4 góc đắp 4 phượng. Phần ô lồng đèn đắp nổi tứ linh (long, lân, quy, phượng). Thân cột xây vuông, đắp gờ, kẻ nổi và thể hiện 3 đôi câu đối chữ Hán. Ngăn cách giữa Đại bái và hiên là ba luồng cửa. Cửa đình được làm theo lối cửa bức bàn. Mỗi cửa gồm bốn cánh dựng song song với nhau trên bậu cửa nối hai cột quân lại tạo ra sự kết nối liên hoàn, chắc chắn giữa các thành tố bộ phận trong tổng thể kiến trúc ngôi đình. Các cánh cửa đều có trụ xoay, cài then, chốt gióng. Đỡ cửa bức bàn là ngưỡng để hệ thống cửa không tiếp xúc với đất gây ẩm mốc, hư hỏng, trang trí hoa văn triện tàu lá mái. Phần trên khuôn cửa để hàng chấn song con tiện và các khoảng ô sa chạm trang trí tứ linh, tứ quý. Nền Đại bái lát gạch vuông. Bộ khung chịu lực toà này được định vị vững chắc bởi hệ thống cột cái, cột quân, xà, vì,... Hệ thống cột đứng song hàng thành từng cặp (gồm 12 cột cái và 12 cột quân). Các cột trong vì đều có kết cấu “thượng thu hạ thách”, được kê lên chân tảng. Các bộ vì tòa Đại bái được làm theo kiểu “vì chồng rường”. Các con rường được tạo tác nổi khối, to khỏe tạo sự vững chắc, trang trí hoa văn lá lật mềm mại, kê trên các đấu vuông trang trí chữ Thọ. Vì nách làm kiểu cốn mê, trang trí tứ linh (long, lân, quy, phượng), tứ quý (tùng, trúc, cúc, mai) rất sinh động. Dưới quá giang là hai đầu dư được trang trí thành hai đầu rồng với các đao mác lượn sóng, râu tóc dài bay ra phía sau và cá hóa long. Bộ phận này có tác dụng chịu lực và trang trí làm giảm bớt đi sự thô cứng cho các bộ vì. Hậu cung đình gồm 03 gian, được chia thành hai phần, ngăn cách bằng hệ thống cửa gồm: Hậu cung ngoài 01 gian và cung cấm 02 gian. Cũng giống như tòa Đại bái, các bộ vì Hậu cung được làm theo kiểu “vì chồng rường”. Toàn bộ phần mái Hậu cung được đặt trực tiếp lên hệ thống cột, tường bao xung quanh và được lợp ngói ta. Hậu cung ngoài thông phong với tòa Đại bái. Đặc biệt, tại đây còn lưu giữ một bát hương sứ men xanh ngọc, nổi rõ các vân mây, 5 ô hoa văn long hóa giữa chữ Thọ, có niên đại thời Lê Cảnh Hưng. Bên phải ban thờ Tam Giang Đại vương đặt ban thờ Quế Hoa Công chúa. Tượng bà Quế Hoa được đặt trong khám thờ chạm trang trí kiểu khám trúc, lèo kép, lồng khung kính. Tượng làm bằng đồng, cao 61cm, dày vai 32cm, dày hông 43cm. Tượng được tạc trong tư thế ngồi trên bệ sơn son thiếp vàng hình bát giác, dáng thư thái như bà chúa trong triều, gương mặt đẹp; cổ kiêu 3 ngấn, tai đeo nụ vàng, đầu đội mũ vương miện, cổ đeo dây chuyền 4 vòng, mình mặc áo gấm, trên áo trang trí chạm đúc nổi các đồng tiền vàng giữa chữ Thọ. Tay trái để úp vào đùi, tay phải để trên đùi nghiêng vào lòng. Ngoài ra, trên ban thờ còn bài trí nhiều đồ thờ có giá trị như: đỉnh đồng, chân nến đồng, bát hương sứ,… Hiện nay, đình Thọ Nham Hạ còn lưu giữ được một số hiện vật, đồ thờ được chạm khắc đẹp, có giá trị về mặt lịch sử và mỹ thuật có niên đại thời Hậu Lê và Nguyễn như: bát hương sứ men ngọc, 04 bức đại tự, 03 đôi câu đối, 03 bức châm, 04 sắc phong (1 Thành Thái, 3 Khải Định), 02 khám thờ, 01 đỉnh đồng, tượng Quế Hoa công chúa,… Với những giá trị tiêu biểu trên, đình Thọ Nham Hạ, xã Thọ Vinh, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên được Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 78/2004/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 23/8/2004./. Nguồn Cục di sản văn hóa .
Hưng Yên 2570 lượt xem
Chợ tình Khau Vai là di tích lịch sử văn hóa do ông Đàm Văn Bông (chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang) ký ngày 25-4-2011. Chợ tình Khau Vai hay còn gọi là chợ tình Phong Lưu có lịch sử hơn 90 năm nay, mỗi năm chỉ diễn ra một lần tại bản Khau Vai (xã Khau Vai, huyện Mèo Vạc, Hà Giang). Đó là phiên chợ của những đôi trai gái người Mông, Tày, Nùng, Giáy... yêu nhau nhưng không nên duyên chồng vợ mỗi năm gặp nhau một lần ở Khau Vai. Chợ tình Khau Vai bắt đầu từ đêm 26 và kết thúc vào chiều tối 27-3 âm lịch. Sau này chợ tình Khau Vai còn là nơi hẹn hò của các đôi trai gái, thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước. NGUỒN: Truyền thông sự kiện Việt Nam
Tuyên Quang 3086 lượt xem
Hang Tiên nằm trong lòng dãy núi đất xen lẫn đá vôi, có rừng cây bao phủ. Hang được hình thành do quá trình kiến tạo địa chất (Karst), đá vôi bị rửa lũa bởi nước mưa len qua hệ thống khe nứt. Hang liên thông với bên ngoài bằng một cửa duy nhất, trong lòng hang có dạng mái vòm, nhũ đá xuất hiện dày đặc ở khắp thành và trần hang, nhiều cột nhũ kéo từ trần hang xuống tới nền hang. Trong lòng hang quá trình tạo nhũ vẫn đang tiếp diễn do nước từ trên mặt đất ngấm qua trần và thành hang nhỏ xuống, kéo dài từ cửa hang vào đến phía trong cửa hang dài gần 200m. Các nhũ đá có rất nhiều hình dáng, kích thước, màu sắc khác nhau như hình sư tử, chim, cá, voi, đầu rồng, đèn lồng, hình dáng của các loại hoa hồng, sen, cúc, đặc biệt có hình dáng nàng thiếu nữ đang ngồi may, vá trang phục… Những nhũ đá này phải trải qua hàng nghìn năm kiến tạo, hình thành. Hang Tiên được bảo tồn nguyên trạng, chưa có sự tác động hoặc xâm hại của con người. Hang Tiên cách Làng Văn hóa du lịch cộng đồng thôn Chì khoảng 500m, cách các Làng Văn hóa du lịch cộng đồng thôn Then và thôn Chang, xã Xuân Giang khoảng từ 3 – 5km. Vị trí phân bố hang Tiên khá thuận lợi cho khách tham quan trải nghiệm, đường lên hang không xa và dễ di chuyển kể cả các lối đi trong lòng hang. Vì vậy, hang Tiên có tiềm năng để khai thác và phát triển du lịch trong tương lai để du khách tham quan, trải nghiệm trong thời gian lưu trú trên địa bàn xã Xuân Giang nói riêng và địa bàn huyện Quang Bình nói chung. NGUỒN: Discover Hà Giang
Tuyên Quang 2956 lượt xem
Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch đã có công văn số 3087,3088,3089/QĐ-BVHTTDL ngày 23/9 về việc xếp hạng di tích quốc gia cho danh lam thắng cảnh cho khu vực Hóa thạch Huệ Biển tại tỉnh Hà Giang. Là một tỉnh vùng cao biên giới, địa hình đi lại khó khăn, khí hậu tương đối khắc nghiệt nhưng Hà Giang lại được thiên nhiên ban tặng nhiều danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp. khu vực Hóa thạch Huệ Biển - danh lam thắng cảnh của tỉnh đã chính thức trở thành Di tích cấp quốc gia. Khu vực Hóa thạch Huệ Biển là một địa điểm nơi có những hóa thạch Huệ Biển được phát hiện lớn hơn những nơi khác, đồng thời cũng có mật độ phân bố dày hơn. Hoa huệ biển tên khoa học là Endoxocrinus parrae, sở dĩ loài hoa này được đặt tên Huệ Biển bởi hình dáng giống hệt một loài hoa bám dưới đáy đại dương. Chúng là nhóm động vật da gai cổ nhất còn tồn tại đến ngày nay, các nhà khoa học đã tìm thấy khoảng 5000 mẫu hoá thạch và hơn 600 loài hiện sống tại khu vực danh thắng này. NGUỒN: TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN MÈO VẠC
Tuyên Quang 2874 lượt xem
Đình Đồng Hạ nằm trên một thế đất cao ráo, thoáng mát ngay trung tâm của làng, phía trước là ao đình - nơi hội tụ những điều may mắn. Căn cứ vào bia ký niên hiệu Cảnh Trị thứ 4 sắc phong di tích có từ thời Hậu Lê (1783) do nhân dân xã Đức Chiêm xây dựng đã trùng tu lần 1 vào năm Canh Ngọ đời Nguyễn và lần 2 vào năm 1991. Đình Đồng Hạ thờ Lưu Lang đại vương có công cùng Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên 12 xứ quân. Đình còn ghi lại nhiều sự kiện lịch sử của địa phương trong thời kỳ cách mạng kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Kiến trúc đình được xây dựng theo kiểu chữ Đinh gồm: Đại Bái và Hậu Cung. Đứng từ xa ta có thể nhìn thấy 4 mái của di tích với 4 đầu đao cong vút nhờ một hệ thống kết cấu đặc biệt gọi là tầu đao lá mái. Để tạo nên sự uy linh cho di tích, các nghệ nhân xưa đã đắp nổi hình rồng chầu, phượng mớm và nghê nằm soài chầu nhau. Bờ nóc, bờ dải, bờ guột của đình được trang trí hình ô hoa chanh, đây là đặc điểm nghệ thuật thường xuất hiện ở thế kỷ XVII. Đại Bái có 5 gian 2 dĩ dài thông thủy, mỗi gian rộng 4m, mỗi dĩ rộng 0,7m với tổng diện tích 300m2. Toàn bộ hệ thống cột được làm bằng gỗ lim nguyên cây theo kiểu “thượng thu hạ thách” và đặt trên các tảng đá kê theo kiểu âm dương “dưới vuông trên tròn”. Hai gian giữa có hai bộ vì làm theo kiểu giá chiêng chồng giường và được cách điệu hóa hình hoa văn guột lá, hình đao mác; những đấu kê chạm khắc hình chữ Thọ; các mảng cốn được chạm khắc nổi hình đuôi rồng và nối tiếp với các đầu dư. Các đầu dư thời Lê hình đao hỏa uy nghi, uy quyền. Vì vậy, đứng ở dưới nhìn lên sẽ thấy hình một con rồng nguyên vẹn. Hậu cung gồm 3 gian với kiểu kiến trúc giá chiêng đơn giản bằng gỗ lim. Ở giữa là một ban thờ được bài trí hai ngai thờ Lê, chân ngai quỳ theo kiểu hổ phù. Hai tay ngai cách điệu phượng bay. Bài vị trang trí rồng, hoa chanh... Hiện nay, Đình Đồng Hạ còn lưu giữ được một số hiện vật quý giá như bia lưu lễ ghi niên hiệu Cảnh Trị thứ 4, bia hậu Khải Định thứ 5, kiệu bát cống, long ngai, bài vị, đỉnh, nến đồng, sắc phong... Đình vẫn được bảo quản, giữ gìn tốt, là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân địa phương. Với những giá trị trên, đình Đồng Hạ, xã Đức Hợp, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên được Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 78/2004/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao ngày 23/8/2004./. Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa .
Hưng Yên 2755 lượt xem
Kỳ Đài Quảng trường 26/3, là địa điểm cũ của “Sân Vận Động” Thành phố Hà Giang trước đây. Năm 1959 Kỳ Đài được xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao của nhân dân các dân tộc trong tỉnh Hà Giang. Đầu xuân năm 1961 Bác Hồ về thăm tỉnh Hà Giang, vào buổi sáng đẹp trời ngày 27/3 tại Kỳ Đài đã diễn ra sự kiện lịch sử quan trọng, đó là toàn thể cán bộ, chiến sỹ, các lực lượng vũ trang và đồng bào các dân tộc trong tỉnh được gặp Bác Hồ. Kỳ Đài trở thành di tích lịch sử, tại nơi đây, tượng đài Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Hà Giang được xây dựng, khánh thành năm 2005, để nhớ mãi sự kiện lịch sử Bác Hồ với Hà Giang. Kỳ Đài đã được trùng tu, Sân Vận Động xưa nay đã được nâng cấp thành Quảng Trường của tỉnh Hà Giang và Kỳ Đài trở thành nơi giáo dục truyền thống cho các thế hệ con em các dân tộc trong tỉnh. NGUỒN: TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THÀNH PHỐ HÀ GIANG
Tuyên Quang 3208 lượt xem
Núi đôi Quản Bạ dường như đã là điểm đến quá quen thuộc với các tín đồ yêu du lịch. Nơi đây luôn có sức hấp dẫn lạ kỳ với du khách. Hình ảnh núi đôi Quản Bạ mang đặc trưng rất riêng. Ngọn núi đôi này như một điểm nhấn đặc biệt giữa núi rừng. Hai ngọn núi tọa lạc tại khu vực phía Tây Nam của Cao nguyên đá Đồng Văn. Ngọn núi đôi như một biểu trưng cho sự trù phú của mảnh đất mà chúng đang ngự trị. Núi đôi Quản Bạ còn được biết đến với tên gọi khác là núi đôi hoặc núi Cô Tiên. Chúng đã được hình thành cách đây từ 1,6 triệu đến 2 triệu năm. Ngọn núi với hình dáng tròn trịa, căng đầy như bộ ngực của nàng tiên đang say giấc nồng. Dường như bất kỳ ai đến với Hà Giang cũng đều đến và check-in cùng tuyệt tác thiên nhiên này. Núi đôi Quản Bạ thu hút du khách không chỉ bởi sự độc đáo của hai quả núi. Một điểm nhấn ấn tượng không kém là khung cảnh thiên nhiên giàu đẹp đã bao lấy nơi đây. Tạo hóa đã rất ưu ái khi ban tặng cho nơi đây bức tranh phong cảnh đầy tuyệt vời. Du khách sẽ được ngắm nhìn những thửa ruộng kéo nhau trải dài. Xen lẫn trong đó là các dãy núi nhấp nhô xanh rì. Và vào mỗi thời điểm khác nhau, núi rừng Quản Bạ lại mang đến màu sắc đặc trưng riêng. Chính điều đặc sắc này là điểm nhấn đặc sắc đã níu chân biết bao du khách. Dù đến đây bao lần thì cũng đều có những cảm nhận khác nhau. Có thể nói, núi đôi Quản Bạ như một biểu tượng của Hà Giang. Và nơi này đã được tạo nên từ hàng trăm triệu năm trước. Đây là sản phẩm được tạo thành dựa trên sự kiến tạo của tạo hóa. Cùng với đó là sự đứt gãy của vỏ trái đất đã góp phần tạo nên những dãy núi đá vôi. Núi đôi Quản Bạ đã được công nhận là di tích danh thắng cấp quốc gia của nước ta. Hình ảnh đặc trưng này như một điểm nhấn của vùng đất Hà Giang. Sẽ là điều rất đáng tiếc nếu bạn đến với Hà Giang mà lại bỏ qua điểm đến hấp dẫn này. Phải một lần đến đây và nhìn ngắm trực tiếp thì bạn mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp tuyệt vời này. Cổng trời Quản Bạ Hà Giang - Núi đôi được xem là “cửa ngõ” mở ra con đường để chinh phục khu vực cao nguyên đá Đồng Văn. Bạn có thể xem xét và tìm hiểu kỹ để lên một lịch trình trọn vẹn. Điều đó sẽ giúp bạn có một hành trình khám phá đầy trọn vẹn. NGUỒN: Việt Nam Booking
Tuyên Quang 3353 lượt xem
Là huyện vùng cao núi đất ở phía tây, Hoàng Su Phì từ lâu đã nổi tiếng với những thửa ruộng bậc thang đẹp nhất của Hà Giang, trải dài mênh mông khắp các sườn núi, vốn được coi là minh chứng cho nghị lực phi thường và khả năng cải tạo, chinh phục tự nhiên của cộng đồng các dân tộc nơi đây. Từ sau khi được công nhận là di sản Danh thắng quốc gia vào các năm 2011 và 2016, ruộng bậc thang Hoàng Su Phì ngày càng nổi tiếng, trở thành một trong những sản phẩm du lịch tiêu biểu của Hà Giang nhờ những giá trị lịch sử, văn hóa và cảnh quan giàu tính nghệ thuật. “Điểm khác biệt của Danh thắng ruộng bậc thang Hoàng Su Phì đó là nhiều tầng bậc, uốn lượn trùng điệp và chạy dài từ ven suối lên đỉnh núi. Xen lẫn trong đó là những cánh rừng nguyên sinh, những nương chè cổ thụ, những ngôi nhà và những dòng sông, khe suối, tạo thành bức tranh thiên nhiên hài hòa, nhiều màu sắc Toàn huyện Hoàng Su Phì hiện có trên 3.720 ha ruộng bậc thang trải đều khắp 24 xã, thị trấn, trong đó có 675 ha đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia danh lam thắng cảnh Ruộng bậc thang tại 11 xã gồm: Nậm Ty, Thông Nguyên, Hồ Thầu, Bản Luốc, Sán Sả Hồ, Bản Phùng, Thàng Tín, Nậm Khòa, Pố Lồ, Bản Nhùng, Tả Sử Choóng. NGUỒN: CỤC DU LỊCH QUỐC GIA VIỆT NAM
Tuyên Quang 3057 lượt xem
Danh lam thắng cảnh hang Nà Luông, thuộc địa phận xã Mậu Long, huyện Yên Minh và xã Sủng Trái, huyện Đồng Văn (Hà Giang) đã chính thức trở thành Di tích Quốc gia. Thông tin trên đã được Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hà Giang Triệu Thị Tình xác nhận. Danh lam thắng cảnh hang Nà Luông nằm cách trung tâm thị trấn Yên Minh khoảng hơn 25 km. Đây là hang được các nhà khoa học tìm thấy vào năm 2010 và đã được đánh giá là hang đẹp nhất so với các hang đã từng được phát hiện trên địa bàn tỉnh Hà Giang với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, mang sắc thái thơ mộng, huyền ảo lung linh. Cửa hang rộng trên 30 mét được che phủ bằng các loại cây gỗ quý hiếm như: nghiến, đinh, lát... Đặc biệt, hang động trong núi đá vôi là một trong những kiểu di sản địa chất rất phổ biến của Công viên Địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn. Trải qua hàng nghìn năm kiến tạo đã tạo ra trong hang có rất nhiều cột thạch nhũ với các hình thù kỳ thú, màu sắc lấp lánh như hoa cương; lòng hang rất rộng và sâu được chia thành nhiều ngách ngăn nối tiếp nhau hấp dẫn đông đảo du khách. Theo ông Hoàng Văn Vịnh, Bí thư Huyện ủy Yên Minh, tỉnh Hà Giang: Ngay sau khi được công nhận là danh lam thắng cảnh Di tích Quốc gia, huyện Yên Minh triển khai các đơn vị chức năng bảo vệ hang Nà Luông nhằm giữ nguyên vẻ đẹp nguyên sơ vốn có. Huyện cũng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số và du khách tham quan không được khai thác nhũ đá trong hang; không săn bắt các loài động vật, các loài chim để bảo vệ môi trường sinh thái. Đồng thời đầu tư, nâng cấp, xây dựng danh lam thắng cảnh hang Nà Luông trở thành một điểm du lịch hấp dẫn cho du khách khi đến với Công viên Địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn./. NGUỒN: CỤC DU LỊCH QUỐC GIA VIỆT NAM
Tuyên Quang 2985 lượt xem
Theo các nguồn tư liệu của UBND tỉnh Hà Giang, phố cổ Đồng Văn (thuộc thị trấn Đồng Văn, huyện Đồng Văn, Hà Giang) xưa thuộc tổng Đông Quan, châu Nguyên Bình, phủ Tường Yên tỉnh Hà Tuyên. Sau đó tách nhập thuộc châu Bảo Lạc do một thổ quan người Tày họ Nông ở Bảo Lạc cai quản. Khi thực dân Pháp chiếm đóng đã tách Đồng Văn ra khỏi Bảo Lạc. Năm 1887, khu vực Đồng Văn bị thực dân Pháp chiếm giữ và để thuận tiện cho việc cai trị đô hộ, chúng chia Đồng Văn thành các Châu nhỏ, đứng đầu mỗi Châu là một dòng họ thổ ty cai quản. Vùng đất Đồng Văn ngày ấy do thổ ty họ Nguyễn là ông Nguyễn Chấn Quay cai quản. Trước đây khu phố cổ chỉ là một vùng thung lũng hoang sơ, dân cư thưa thớt. Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khi người Pháp chiếm đóng Hà Giang, với ý định đưa khu vực này trở thành trung tâm giao thương sầm uất nên khu phố cổ Đồng Văn đã được xây dựng và hình thành, người đầu tiên hoạch định và kiến thiết là ông Lương Trung Tú – lý trưởng thị trấn Đồng Văn lúc bấy giờ, sau đó nhiều ngôi nhà cổ lần lượt được xây dựng thành hai dãy nhà bao quanh chợ và kéo dài vào tận chân núi. Ngoài ra, trong phố cổ xưa còn có khu chợ là nơi giao thương của đồng bào các dân tộc. Những ngày chợ phiên, các thiếu nữ Mông, Pu Péo, Lô Lô xúng xính trong những bộ trang phục dân tộc từ các bản làng xa xuống chơi chợ và mua sắm, gặp gỡ, trao đổi hàng hóa thiết yếu... Trải qua bao thăng trầm lịch sử, phố cổ Đồng Văn hiện còn bảo tồn được khoảng 40 ngôi nhà cổ, hầu hết được trình tường 2 tầng, lợp ngói âm dương có tuổi đời trên 100 năm, đặc biệt có những ngôi nhà trên 200 năm đến gần 300 năm tuổi, cùng một số công trình kiến trúc cổ độc đáo khác... Với những giá trị lịch sử, văn hóa và kiến trúc độc đáo, phố cổ Đồng Văn đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích Kiến trúc Nghệ thuật cấp Quốc gia theo Quyết định số 4195/QĐ-BVHTTDL ngày 16/11/2009. NGUỒN: Cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Tuyên Quang 2863 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 13247 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 12055 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 9960 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 9931 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 9493 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 9042 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 8942 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 8810 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 8621 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Gia Lai 8595 lượt xem