Di tích lịch sử

Việt Nam

Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965 - 1975)

Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965 - 1975) là nơi ghi dấu những sự kiện lịch sử quan trọng trong truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân các dân tộc tỉnh Đắk Lắk. Nơi đây không chỉ là đường dây liên lạc thông tin, chuyển tiếp tế từ miền Bắc vào hậu phương tại miền Trung đến các tỉnh miền Nam mà còn là nơi Tỉnh ủy Đắk Lắk cùng các đơn vị ban ngành trong tỉnh chọn làm căn cứ, sống làm việc và hoạt động cách mạng. Đặc biệt, Khu căn cứ còn là nơi diễn ra 3 lần Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk: lần thứ III (năm 1966), lần thứ IV (6/1969), lần thứ 5 (11/1971); là hành lang để đưa đón cán bộ tăng cường cho chiến trường Tây Nguyên trong những năm 1968 -1973. Ngày 29/12/2023, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 4241/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch về việc xếp hạng di tích quốc gia đối với Di tích lịch sử Các điểm di tích bổ sung vào Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965-1975), các xã Hòa Lễ, Hòa Phong, Cư Pui, Yang Mao và Cư Đrăm, gồm 39 địa điểm. Theo lãnh đạo Sở Văn Hóa Thể Thao & Du Lịch cho biết, Di tích lịch sử Các điểm di tích bổ sung vào Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965-1975), các xã Hòa Lễ, Hòa Phong, Cư Pui, Yang Mao và Cư Đrăm là một trong 43 di tích được xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh của tỉnh, có giá trị và ý nghĩa to lớn về lịch sử, văn hóa, khoa học; thể hiện lòng tri ân đến các thế hệ cha anh đã hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; góp phần giáo dục truyền thống cách mạng, lòng yêu nước, tự hào dân tộc của nhân dân, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk

Đắk Lắk 2128 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Tháp Yang Prong

Tháp Chăm Yang Prong thuộc xã Ea Rốk, huyện Ea Súp, cách thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 100km về phía Tây, còn có tên khác là tháp Chàm Rừng Xanh. Đây là một trong những tháp Chàm duy nhất ở Tây Nguyên được xây dựng vào cuối thế kỷ XIII để thờ thần Siva dưới dạng Mukhalinga (vị thần vĩ đại), cầu mong sự nảy nở của giống nòi và ấm no hạnh phúc. Tháp Yang Prong hay còn gọi là Tháp chàm Rừng xanh là một ngọn tháp Chàm nằm ở thôn 5 xã Ea Rốk, huyện Ea Súp, tỉnh Đăk Lăk. Tương truyền, tháp là ngôi mộ của người đứng đầu làng Chăm xưa kia. Năm 1906, người ta thấy ở trên khung cửa đá của tháp những dòng bia ký cổ của vị Vua Chăm trị vì vào cuối thế kỷ XIII. Những dấu tích vật chất quanh Yang Prông lại như chứng tỏ đây vốn là một khu thành trì dinh thự xưa của người Chăm ở Tây Nguyên. Toà tháp còn khá nguyên vẹn, cao hơn 10m, xây bằng gạch cứng với nhiều kích cỡ khác nhau. Tháp có bình đồ vuông, phần tiền sảnh phía Đông rộng 1,60m. Cấu trúc tháp hình vuông, phía trên nhọn như củ hành, khác với các kiến trúc Chăm thường thấy. Năm 1990, nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đã tìm đến và có một số công trình nghiên cứu về tháp. Các nhà khoa học đều khẳng định: Yang Prông được xây dựng vào thế kỷ 13, chứng tỏ cách đây khoảng 700 năm, Tây Nguyên không chỉ có người bản địa mà đã có những dân tộc khác cùng sinh sống. Yang Prông là một di tích có ý nghĩa lớn đối với các nhà dân tộc học, lịch sử, kiến trúc…Tháp được xây dựng vào cuối thế kỷ XIII dưới thời Vua Sinhavarman III (Chế Mân), thờ thần Shiva dưới dạng Mukhalinga, cầu mong sự nảy nở của giống nòi, và ấm no hạnh phúc. ThápYang Prong được phát hiện vào quãng những năm 1904-1911 bởi một nhà dân tộc học người Pháp tên Henri Maitre. Nhà khoa học này đã khảo tả về công trình này trong cuốn Les jungles Moi (Rừng Mọi) xuất bản tại Paris năm 1912. Tháp Yang Prong là một khối kiến trúc bằng gạch nung đỏ trên nền cao bằng đá xanh. Tháp có chiều cao 9m, đáy vuông mỗi cạnh dài 5m, mỗi mặt tường ngoài là 3 cửa giả, một cửa duy nhất mở về hướng Ðông, nơi ngự trị của các vị thần linh. Phía trên mở rộng và thon vút hình tháp bút, khác biệt với kiến trúc của các tháp Chàm khác ở Trung Bộ. Trong thời gian chiến tranh, tháp bị những kẻ đi tìm vàng đánh mìn nên đã hư hỏng nhiều. Tháp cũng không được xây dựng trên những ngọn đồi cao, núi thấp không bóng cây như những ngọn tháp chàm khác mà lại nằm chìm lấp dưới những tán cổ thụ của rừng già Ea Súp và bên dòng sông Ea H'leo hiền hòa. Yang Prông có nghĩa là tháp thờ Thần Lớn, vị thần chuyên cai quản mùa màng theo quan niệm của người Chăm cổ. Đây là một công trình còn dang dở, bởi lẽ khi xây dựng tháp, đồng bào Chăm không bao giờ xây một cái mà thường là một quần thể. Hiện nay, tháp đã được công nhận là Di sản văn hóa cần được bảo tồn. Tuy đã được tôn tạo nhưng nhìn chung tháp vẫn giữ được nét cổ kính, trang nghiêm của nó. Chung quanh tháp được bao quanh bởi những cây gỗ nhiều năm tuổi, khá rậm rạp, đây cũng là minh chứng cho nỗ lực bảo vệ của chính quyền địa phương. Không chỉ là một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo, tháp Yang Prông mang sắc thái và văn hóa Chăm cổ xưa huyền bí, cổ kính thâm nghiêm tồn tại vững bền cùng thời gian. Ngày 3 – 8 – 1991, tháp đã được công nhận là Di tích văn hoá kiến trúc cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk

Đắk Lắk 2134 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích Rộc Tưng - Gò Đá

Nằm trên địa bàn thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai, phức hợp di tích sơ kỳ Đá cũ Rộc Tưng - Gò Đá gồm di tích Gò Đá ở phường An Bình và 12 di tích Rộc Tưng ở xã Xuân An, thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai. Trong đó, 4 địa điểm đã khai quật là Gò Đá, Rộc Tưng 1, Rộc Tưng 4 và Rộc Tưng 7. Số còn lại đều đã đào thám sát và xác nhận thuộc cùng phức hợp với Rộc Tưng - Gò Đá. Gò Đá Nằm ở phường An Bình, thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai, có tọa độ 13058’19,2” vĩ Bắc, 1080 39’05,1” kinh Đông, độ cao tuyệt đối 421,5m. Di tích nằm ở bờ phải và cách sông Ba khoảng 1,5km, trong vùng địa hình đồi sót của sông Ba bị bóc mòn tích tụ, niên đại sơ kỳ Cánh Tân (QI). Di tích được khai quật 2 lần (năm 2015 và 2016), với tổng diện tích là 94m2, do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam và Viện Khảo cổ học - Dân tộc học Novosibirsk thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga tiến hành. Di tích Gò Đá có 1 tầng văn hóa, cấu tạo từ đá granite phong hóa tại chỗ, chứa công cụ đá và mảnh thiên thạch. Một số đặc trưng chung: đa số được làm từ đá quartz, quartzite, kích thước lớn, loại hình nổi trội là công cụ ghè hai mặt, mũi nhọn tam diện, nạo, công cụ chặt, mảnh tước, hòn ghè, chày…được ghè đẽo thô sơ, ít tu chỉnh, có hình thái khác và cổ hơn các di tích sơ kỳ Đá cũ hiện biết ở Việt Nam như Núi Đọ (Thanh Hóa) và Xuân Lộc (Đồng Nai). Gò Đá là di tích cư trú, chế tác công cụ của cư dân sơ kỳ Đá cũ, ở giai đoạn người đứng thẳng (Homo erectus), trong dòng tiến hóa của nhân loại từ đây lên người hiện đại (Homo sapiens) và là bằng chứng về văn hóa đầu tiên của nhân loại. Rộc Tưng 1 Nằm ở xã Xuân An, có tọa độ 14002’25,3” vĩ Bắc, 1080 40’82,2” kinh Đông, độ cao tuyệt đối 556m. Nằm ở bờ trái và cách sông Ba khoảng 2,5km, được khai quật 3 lần (năm 2016, 2017 và 2018); Năm 2016, khai quật hố 1 với diện tích 48m2 (6m x 8m); năm 2017, khai quật hố 2 với diện tích 70m2 (10m x 7m), được chọn dựng nhà trưng bày tại chỗ khi đào đến lớp 1.2. ở độ sâu 0,8m -1,1m (xuất lộ tầng văn hóa); năm 2018, khai quật 20m2 trong phạm vi 70m2 của hố 2, ở độ sâu lớp 2.2. còn lại 50m2 được bảo tồn trong nhà mái che. Rộc Tưng 1 là di tích cư trú và nơi chế tác, trong đó yếu tố cư trú khá điển hình, thể hiện ở bề mặt tầng văn hóa có một số cụm đất đá, liên kết rắn chắc, nổi cao hơn xung quanh, trong đó tập trung cao các mảnh đá thạch anh, một vài hạch đá, mảnh tước và công cụ ghè đẽo. Niên đại di tích Rộc Tưng 1, về cấu tạo địa chất cơ bản giống Gò Đá, thuộc sơ kỳ Pleistocene, về đặc điểm di vật cùng tồn tại của công cụ ghè hai mặt, ghè hết một mặt, mũi nhọn tam diện, nạo, choppers… mang đặc trưng sơ kỳ Đá cũ. Rộc Tưng 1 là di tích cư trú và nơi chế tác, trong đó yếu tố cư trú khá điển hình, thể hiện ở bề mặt tầng văn hóa có một số cụm đất đá, liên kết rắn chắc, nổi cao hơn xung quanh, trong đó tập trung cao các mảnh đá thạch anh, một vài hạch đá, mảnh tước và công cụ ghè đẽo. Rộc Tưng 4 Nằm ở tọa độ 14002’2,7” vĩ Bắc và 108040’35,7” kinh Đông, cao 430m, nằm cách Rộc Tưng 1 khoảng 500m và cùng ở bờ trái sông Ba. Di tích được thám sát tháng 11/2015 và khai quật vào năm 2016, 2017 và 2018. Kết quả khai quật 4 hố ở di tích Rộc Tưng 4 cho thấy, các hố có cấu trúc địa tầng, đặc điểm hiện vật giống nhau, phản ánh tính chất cư trú và chế tác công cụ. Tổ hợp công cụ đá ở các địa điểm Rộc Tưng 4 về cơ bản giống Rộc Tưng 1 và Gò Đá. Rộc Tưng 7 Nằm ở xã Xuân An, thị xã An Khê, tọa độ 14001’452” vĩ Bắc và 108041’11,3” kinh Đông, cao 438m. Di tích được phát hiện năm 2016 và khai quật 2 lần (năm 2017 và 2018) với tổng diện tích 40m2. Kết quả khai quật thu được một số công cụ đá, để chặt, mũi nhọn, nạo, công cụ ghè hai mặt, hạch và nhiều mảnh tước. Rộc Tưng 7 có đặc điểm, tính chất và niên đại tương tụ như các địa điểm đã khai quật ở thung lũng An Khê. Việc phát hiện, thám sát di tích Rộc Tưng 7 đã bổ sung vào danh sách các địa điểm sơ kỳ Đá cũ hiện biết ở vùng đồi gò thung lũng An Khê, bổ sung thêm bằng chứng về sự hiện diện của cộng đồng người giai đoạn tối cổ của nhân loại trên đất nước Việt Nam. Các di tích khảo cổ Đá cũ ở An Khê đều phân bố trên các đồi gò cao trung bình 420 - 450m so với mực nước biển, thuộc vùng chuyển tiếp từ cao nguyên xuống đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam. Tổ hợp hiện vật trong các di tích sơ kỳ Đá cũ An Khê có sự thống nhất, ổn định về chất liệu, loại hình, kỹ thuật chế tác, mang đặc trưng chung của một kỹ nghệ sơ kỳ Đá cũ, mang tên kỹ nghệ An Khê. Kỹ nghệ An Khê được đặc trưng bởi tổ hợp công cụ đá làm từ cuội sông, suối tại địa phương, kích thước lớn, đá cứng, hạt mịn, chủ yếu là quartz và quartzite. Công cụ đá được ghè đẽo thô sơ với các loại hình tiêu biểu: công cụ ghè hai mặt (beface), rìu tay (Handaxe), mũi nhọn (pick), mũi nhọn tam diện và công cụ chặt thô (chopper). Trong đó, công cụ chặt thô chủ yếu phân bố ở khu vực châu Á, công cụ ghè hai mặt và rìu tay nổi trội cho Đá cũ phương Tây, còn mũi nhọn và mũi nhọn tam diện rõ nét nhất ở sơ kỳ Đá cũ vùng An Khê. Với những giá trị tiêu biểu trên, Rộc Tưng - Gò Đá, tỉnh Gia Lai được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích khảo cổ học quốc gia theo Quyết định số 3237/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 04/11/2020. Ngày 29/12/2022, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký Bằng xếp hạng công nhận “Di tích quốc gia đặc biệt” đối với Rộc Tưng-Gò Đá ở thị xã An Khê, Gia Lai. Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa.

Gia Lai 2036 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt. Mở cửa

Di sản của Hoàng tộc Chăm

Kho mở Bộ sưu tập di sản Hoàng tộc Chăm tọa lạc tại thôn Tịnh Mỹ, xã Phan Thanh, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Nơi đây trưng bày hơn 100 hiện vật nguyên gốc mang đậm giá trị lịch sử văn hóa của dân tộc Chăm và được phân thành 8 nhóm sưu tập. Trong đó, giá trị nhất là bộ vương miện của vua Po Klaong Mânai và búi tóc của Hoàng hậu Po Bia Som bằng chất liệu vàng với đường nét chạm khắc hoa văn rất tinh xảo, độc đáo ở đầu thế kỷ XVII. Bộ sưu tập di sản Hoàng tộc Chăm là nơi hội tụ đầy đủ các giá trị về lịch sử ra đời của vương triều Chăm xưa, về trang phục, trang sức, vương miện, vũ khí, đồ ngự dụng trong hoàng cung,… được các đời hậu duệ vua Chăm lưu giữ, trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ sau, trải qua hơn 400 năm. Trước năm 1975, Bộ sưu tập di sản văn hóa Hoàng tộc Chăm được cất giữ kín trong kho vì những lý do tâm linh, tín ngưỡng và phần quan trọng khác là an ninh, an toàn cho di sản và người bảo vệ di sản. Cho đến những năm 1991 - 1992 thì việc khảo sát, nghiên cứu và lập Hồ sơ khoa học Đền thờ vua Po Klaong Mâhnai và Bộ sưu tập mới từng bước được tiến hành và hoàn thành trình Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng tại Quyết định số 43/Văn Hóa /Quyết Định ngày 7/01/1993. Sau khi được xếp hạng, nhận thức được việc phải bảo vệ lâu dài Bộ sưu tập duy nhất của tổ tiên còn lại nên gia đình hậu duệ Hoàng tộc Chăm là bà Nguyễn Thị Thềm (1911 - 1995) đã đồng ý từng bước để Bảo tàng Bình Thuận thiết kế, trưng bày Bộ sưu tập dưới dạng “Kho mở”. Tuy nhiên, do ngôi nhà của bà Thềm được xây dựng những năm đầu của thập niên 1960, không gian khá chật hẹp, tầng dưới để ở, tầng trên chia thành 2 phòng để trưng bày nên gia đình chỉ mở cửa phục vụ cho các đoàn nghiên cứu, đoàn chính khách là chính, chưa phục vụ rộng rãi cho du khách tham quan chiêm ngưỡng các hiện vật gốc. Nhiều năm qua, chính quyền các cấp và các ngành chức năng cũng đã triển khai nhiều việc nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của Bộ sưu tập di sản Hoàng tộc Chăm. Tuy nhiên, hiệu quả phát huy vẫn ở mức khiêm tốn, chưa tương xứng với giá trị của di sản. Chính vì vậy, cần có hướng tiếp cận mới để Bộ sưu tập thực sự phát huy giá trị trong đời sống xã hội phát triển, đặc biệt là sự bùng phát về du lịch văn hóa. Qua thời gian khảo sát, thống kê, Bảo tàng tỉnh Bình Thuận đã phân loại Bộ sưu tập di sản Hoàng tộc Chăm thành 8 sưu tập như sau: Sưu tập vương miện vua và hoàng hậu; Sưu tập vũ khí: Đao, kiếm; Sưu tập nhạc khí (Phèng la); Sưu tập đồ thờ tự (tín ngưỡng, tâm linh); Sưu tập vải (vải thổ cẩm và vải có nguồn gốc từ nước ngoài); Sưu tập gốm sứ; Sưu tập giấy: Sắc phong một số đời vua triều Nguyễn và một số loại tư liệu về đất đai, địa bạ, các văn bản hành chính sao chép bằng chữ Hán Nôm từ những sắc phong các đời vua nhà Nguyễn; Sưu tập gỗ: Rương đựng đồ hoàng tộc, mũ vệ binh. Nguồn Sở Văn hóa Thể Thao và Du lịch tỉnh Bình Thuận.

Lâm Đồng 2339 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Địa điểm diễn ra cuộc Đồng khởi Hòa Thịnh

Khu di tích lịch sử Đồng Khởi xã Hòa Thịnh là nơi trưng bày những hình ảnh lịch sử về ngày Đồng Khởi của quần chúng Nhân dân xã Hòa Thịnh. Đây cũng là nơi để giáo dục truyền thống cách mạng của xã đối với lớp trẻ ngày nay và mai sau, đồng thời để phục vụ khách tham quan du lịch tìm hiểu ý nghĩa lịch sử ngày Đồng Khởi xã Hòa Thịnh. Đây là khu di tích lịch sử cấp quốc gia được Bộ Văn hóa Thông tin có Quyết định số 2005/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 16/11/2005 xếp hạng di tích quốc gia “Địa điểm diễn ra cuộc Đồng khởi Hòa Thịnh” Trước yêu cầu của cuộc đấu tranh cách mạng mới, tháng 1-1959, Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 15 xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền nam là “Giải phóng miền nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập, dân chủ và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền nam”, “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”. Dưới ánh sáng Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, phong trào cách mạng ở tỉnh Phú Yên chuyển sang giai đoạn phát triển mới. Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Yên lần thứ nhất được tổ chức tại căn cứ Thồ Lồ (huyện miền núi Đồng Xuân) đề ra chủ trương, biện pháp đẩy mạnh phong trào Đồng Khởi ở đồng bằng, tuyển thanh niên xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng vùng căn cứ và cơ sở quần chúng… Ông Dương Dụ, một nhân chứng lịch sử, là một trong những cán bộ cách mạng trực tiếp tham gia lãnh đạo cuộc đồng khởi Hòa Thịnh đã xúc động phát biểu, hệ thống lại quá trình diễn ra đồng khởi. Sau khi được học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 và chuẩn bị lực lượng, vào 19 giờ ngày 22-12-1960, lực lượng tham gia đồng khởi bắt đầu hành quân từ dốc Đá Ngó qua các thôn, xóm rồi chia thành ba cánh tiến đến trụ sở xã Hòa Thịnh, nổ súng đánh vào trung đội dân vệ của địch. Do được vận động từ trước, khi nghe tiếng súng nổ, hàng nghìn quần chúng từ các hướng đổ ra đường, mang theo gậy gộc, giáo mác cùng lực lượng vũ trang của huyện vừa tấn công, vừa nổi dậy truy bắt bọn tề ngụy, rồi tập trung về trụ sở xã Hòa Thịnh để dự mít-tinh. Lực lượng tham gia đồng khởi đã bắt tên Phó Đại diện giao nộp con dấu, giấy tờ, tài liệu... Khoảng 1 giờ sáng 23-12-1960, cuộc mít tinh bắt đầu. Nhân dân hô vang các khẩu hiệu: “Đả đảo đế quốc Mỹ và bọn bù nhìn tay sai”, “Cách mạng miền nam Việt Nam nhất định thắng lợi”. Đến 3 giờ cùng ngày, cuộc mít-tinh kết thúc. Hòa Thịnh trở thành xã đầu tiên của đồng bằng Khu 5 do chính quyền cách mạng làm chủ. Từ đồng khởi Hòa Thịnh, lực lượng cách mạng tiếp tục diệt ác, phá kiềm ở các xã Hòa Đồng, Hòa Tân, Hòa Mỹ, Hòa Hiệp. Vùng giải phóng của tỉnh Phú Yên mở rộng với hơn 20.000 dân, phong trào sản xuất nuôi quân, đóng góp ủng hộ cách mạng phát triển hơn bao giờ hết. Cũng từ đồng khởi Hòa Thịnh, hàng ngàn thanh niên của Phú Yên tình nguyện gia nhập bộ đội giải phóng, thoát ly vào căn cứ, đi khắp các chiến trường Khánh Hòa, Đắk Lắk làm nhiệm vụ chống Mỹ, ngụy, cứu nước. Nguồn Trang thông tin điện tử xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.

Đắk Lắk 2356 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Địa điểm diễn ra cuộc đấu tranh Cây Cốc năm 1954

Di tích "Địa điểm diễn ra cuộc đấu tranh Cây Cốc năm 1954" là nơi ghi dấu sự kiện lịch sử quan trọng được ghi vào sử sách về cuộc đấu tranh của đồng bào ta đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ tại Quảng Nam. Sáng 27-9, tại xã Tiên Thọ, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam đã diễn ra Lễ đón nhận Bằng Di tích lịch sử cấp Quốc gia “Địa điểm diễn ra cuộc đấu tranh Cây Cốc năm 1954” và tưởng niệm 65 năm cuộc đấu tranh Cây Cốc (29/9/1954 - 29/9/2019). Di tích “Địa điểm diễn ra cuộc đấu tranh Cây Cốc năm 1954” là nơi ghi dấu sự kiện lịch sử quan trọng được ghi vào sử sách về cuộc đấu tranh của đồng bào ta đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ tại Quảng Nam. Theo sử liệu ghi lại, 9h ngày 29-9-1954, nhân dân từ Quế Sơn, Tam Kỳ, Quảng Ngãi lên chợ Cây Cốc (xã Tiên Thọ, huyện Tiên Phước) để buôn bán. Khi nghe tin địch bắt giam, đàn áp người dân và các cán bộ cách mạng nên họ đã tập hợp, nổi trống mõ kêu gọi đồng bào quanh chợ Cây Cốc cùng đi đấu tranh. Đến khoảng 10h cùng ngày, khi vừa đến cầu Vôi, 3 chiếc máy bay khu trục của quân độ Pháp quần lượn trên bầu trời, địch đã ban hành mệnh lệnh đàn áp, liền sau đó lính của Tiểu đoàn 601 nổ súng vào nhân dân,... khiến hơn 330 đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống. Việc công nhận “Địa điểm diễn ra cuộc đấu tranh Cây Cốc năm 1954” là Di tích lịch sử cấp Quốc gia ngoài việc trở thành địa điểm giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ còn là nơi kết nối du lịch, văn hóa lịch sử của tỉnh Quảng Nam. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.

Đà Nẵng 2280 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Địa điểm khởi phát phong trào chống sưu thuế năm 1908 ở miền Trung

Phong trào chống sưu cao, thuế nặng ở Quảng Nam và các tỉnh miền Trung đã trải qua hơn một thế kỷ song những giá trị lịch sử mà phong trào mang lại vẫn còn vẹn nguyên cho đến ngày hôm nay…. “Sòng dân Đại Lộc”… Năm 1858, thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên vào cửa biển Đà Nẵng mở đầu cho việc xâm lược nước ta. Các phong trào yêu nước liên tục nổ ra ở khắp nơi nhưng cuối cùng bị thất bại. Năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chính sách “khai thác thuộc địa” lần thứ nhất bằng những chính sách thực dân phản động và bảo thủ, bóc lột nhân dân ta hết sức thậm tệ, tàn ác đặc biệt là chính sách sưu thuế. Người dân không những phải nộp thuế mà còn phải đi phu, lao dịch, đắp đường… Biết bao nhiêu người bỏ mạng, biết bao nhiêu người mang thương tật cả đời.. Những hình ảnh tang thương đó đã đi vào ca dao: Từ ngày Tây lại cửa Hàn Đào sông Cu Nhí, bòn vàng Bồng Miêu Huyện Đại Lộc là một trong những địa phương của tỉnh Quảng Nam mà nhân dân chịu nhiều thống khổ bởi chính sách cai trị tàn bạo thực dân phong kiến. Đói khát, bệnh tật cộng thêm thiên tai, hạn hán liên miên đã dìm cuộc sống của những người nông dân xuống tận cùng của đau khổ. Tên tri huyện lúc đó lại lợi dụng chính sách tăng thuế để khai khống số dân nhằm thu lợi cho cá nhân. Trước tình cảnh đó, vào đầu tháng 3 năm 1908, tại một bữa đám giỗ tộc Trương làng Phiếm Ái, xã Đại Nghĩa; một số hào lý đã bàn nhau làm đơn lấy chữ ký của các lý trưởng các làng xã trong huyện gửi quan huyện xin giảm nhẹ sưu cùng các món thuế bởi nhân dân quá khổ trước chính sách sưu, thuế hiện hành; nếu không được sẽ gửi lên Tòa Công sứ Pháp tại Hội An. Do việc làm xuất phát từ sự thương dân, vì quyền lợi chính đáng của đa số nhân dân, nên những người "làm đơn lấy chữ ký ", được nhân dân trong huyện gọi là "Đồng dân" và cuộc "Xin sưu" do họ khởi xướng được gọi là "Sòng Đồng Dân" hay là "Sòng dân Đại Lộc". Ngày 11-3-1908, hơn 400 người dân ăn mặc rách rưới kéo xuống huyện đường, nhưng viên Tri huyện không dám nhận đơn, lại cấp báo với viên quan tỉnh và Công sứ Pháp nên đoàn biểu tình bèn kéo nhau đi vây dinh Tổng đốc rồi vây luôn cả tòa Công sứ. Nhân dân các phủ huyện như Điện Bàn, Duy Xuyên, Tam Kỳ, Hội An, Hòa Vang… cũng đồng loạt hưởng ứng tại địa phương mình, và còn kéo về Hội An nên số người biểu tình ở đây mỗi lúc một đông. Trước sức ép của quần chúng nhân dân, chính quyền thực dân phong kiến đã thẳng tay đàn áp, bắt một số người lãnh đạo phong trào đày đi các nhà tù hoặc xử trảm. Phong trào đấu tranh chống sưu cao, thuế nặng sau một thời gian cũng bị chính quyền thực dân, phong kiến đàn áp. Tuy nhiên, phong trào nhận được sự hưởng ứng, tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân bởi vì đây là phong trào đấu tranh vì quyền lợi chính đáng của những người dân nghèo khổ chống lại sự bóc lột của bộ máy cai trị thối nát lúc bấy giờ. Phong trào chống sưu thuế năm 1908 cũng thể hiện được lòng yêu nước, tinh thần, sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Xuất phát từ lòng căm thù bọn thực dân xâm lược, bè lũ phong kiến tay sai bán nước hại dân, dưới sự lãnh đạo của những sĩ phu yêu nước, những người nông dân “áo rách nón cời” đã vùng lên tranh đấu. Lúc đầu, phong trào chỉ xuất phát ở một huyện, sau đó nhanh chóng lan ra các huyện, phủ trong tỉnh Quảng Nam và các tỉnh miền Trung. Lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết của nhân dân ta từ xưa đến nay cũng chính là giá trị bất biến, góp phần quan trọng vào sự thành công trong quá trình xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước. Phong trào chống sưu thuế đã giáng một đòn rất mạnh vào bộ máy chính quyền thực dân phong kiến đương thời. Ở Quảng Nam và các tỉnh miền Trung, nhân dân nổi dậy phá buồng giam, đốt dụng cụ tra tấn, giải phóng tù nhân; hàng loạt những tên tay sai gian ác bị quần chúng nhân dân vây bắt, có những tên ác ôn còn bị trừng trị thích đáng. Dù ở đâu, các cuộc nổi dậy của nhân dân đều có sự “dẫn đường chỉ lối” của các nho sinh, thân sĩ- những người có nhận thức nhất định về xã hội lúc đó. Mặc dù phong trào đã thất bại song nó đã mang đến ánh sáng mới cho con đường cách mạng Việt Nam. Giai cấp nông dân chính là lực lượng nòng cốt cho các phong trào cách mạng sau này. Trước sức mạnh bởi đòn roi, súng đạn của kẻ thù, những yêu sách mang tính ôn hòa sẽ không mang lại kết quả; chỉ có bạo lực cách mạng mới đủ sức chống lại bạo lực phản cách mạng. Phong trào đã được nhận xét là “một cuộc cách mạng được chuẩn bị một cách cực kỳ khéo léo”. 110 năm đã trôi qua, phong trào chống sưu thuế ngày ấy mới chỉ là bước mở đầu cho những phong trào cách mạng sục sôi sau này. Nhưng giá trị hiện hữu mà cho đến hiện nay chúng ta vẫn phải khẳng định đó là sức mạnh của lòng dân. Ngày ấy, trước sự vận động của các nhà nho yêu nước, quần chúng nhân dân “cơm đùm gạo gói” thay nhau đi đấu tranh đòi giảm sưu, giảm thuế. Hàng ngàn người chia nhau từng ngụm nước, từng nắm cơm, chăm sóc, động viên những người bị thương… Họ đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, không vụ lợi, không toan tính cho cá nhân mình. Họ làm tất cả mọi việc chỉ với mục đích duy nhất là chống lại ách thống trị tàn bạo của chính quyền thực dân phong kiến; đòi lại quyền lợi hợp pháp, chính đáng cho những kiếp người lao khổ. Phong trào chống sưu thuế ở Quảng Nam và các tỉnh miền Trung đã đi vào lịch sử đấu tranh của dân tộc ta như một mốc son sáng ngời. Ghi nhận những giá trị lịch sử to lớn của phong trào chống sưu thuế; ngày 29/12/2017, Bộ trưởng Bộ Văn hóa- Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định số 5400/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch về việc xếp hạng Di tích lịch sử Địa điểm khởi phát phong trào chống sưu, thuế năm 1908 ở miền Trung (Đình Phiếm Ái và Nhà Ông Nghè Tiếp), xã Đại Nghĩa, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam là di tích quốc gia.

Đà Nẵng 2192 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Lăng mộ Thượng thư Trương Công Hy

Thượng thư Trương Công Hy (1727 - 1800) là người làng Thanh Quýt của phủ Điện Bàn, nay thuộc xã Điện Thắng Trung, huyện Điện Bàn. Cụ là nhân vật lịch sử đặc biệt, được Viện Sử học (thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam) khẳng định “là danh thần triều Tây Sơn mà chính sử nước ta còn bỏ sót”, vì thế tên tuổi và sự nghiệp đối với sự phát triển của lịch sử dân tộc cần được tôn vinh xứng đáng. Trương Công Hy đỗ hương cống dưới thời Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, làm thầy dạy của ấu chúa Nguyễn Phúc Dương cũng như các hoàng tử, hoàng tôn trong phủ chúa. Nhận thấy sự mục ruỗng của chính sự lúc bấy giờ nên khi triều Tây Sơn chiêu hiền, đãi sĩ, phất cờ chính nghĩa, cụ đã theo phụng sự cho vương triều Tây Sơn và được bổ nhiệm làm Tri phủ Điện Bàn, rồi Khâm sai Quảng Nam trấn, Hình bộ Thượng thư. Về quê an hưu, cụ được truy phong chức Binh bộ Thượng thư, tước Thùy Ân Hầu. Sinh thời, Thượng thư Trương Công Hy là một danh thần luôn hết lòng vì dân, vì nước, nổi tiếng thanh liêm. Trong thời gian làm Tri phủ Điện Bàn, cụ dốc hết tâm sức chấn chỉnh chính quyền cấp thôn, xã; tổ chức khẩn hoang, đẩy mạnh sản xuất, mở mang trường lớp, tiến cử hiền tài, hết lòng chăm lo đời sống nhân dân. Được nhà Tây Sơn cấp lộc điền 500 mẫu ruộng tại Lai Nghi, Phú Chiêm (xã Điện Phương), khi về hưu cụ đã phân phát cho người dân địa phương canh tác. Lúc cụ mất, dân chúng khắp nơi đến viếng rất đông. Làng phải dựng “Xích hậu” (tức nhà khách) để dân chúng trọ lại trước khi vào viếng. Con đường từ “Xích hậu” đến nhà thờ tộc Trương hiện vẫn được dân chúng gọi là Ngõ Quan Thượng. Trong suốt cuộc đời của mình, Thượng thư Trương Công Hy đã có nhiều đóng góp vào việc chấn chỉnh tổ chức giáo dục khoa cử, biên soạn luật lệ, tiến cử người hiền tài… Năm 2005, Lăng mộ Thượng thư Trương Công Hy được Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh công nhận là di tích văn hóa lịch sử cấp tỉnh và đến tháng 8 năm 2013, Bộ Văn Hóa - Thể Thao & Du Lịch đã có quyết định công nhận Di tích lịch sử và xếp hạng di tích quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Đà Nẵng 2197 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu di tích lịch sử và thắng cảnh Khu căn cứ Núi Bà

Cao 800m so với mực nước biển, Núi Bà là dãy núi cao nhất và lớn nhất ở vùng đồng bằng Bình Định. Trên núi có 66 đỉnh cao thấp khác nhau, những khối đá khổng lồ đủ hình thù, có nhiều cánh rừng, con suối, các điểm uốn lượn, gấp nếp của các sườn đồi tạo địa hình hiểm trở... Trong kháng chiến chống Mỹ, núi Bà giữ vị trí chiến lược quan trọng, đặc biệt đối với địa bàn khu Đông. Nơi đây từng là căn cứ hoạt động của Tỉnh ủy, các cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang của tỉnh, Thị ủy Quy Nhơn và các huyện ủy An Nhơn, Tuy Phước, Phù Cát. Từ căn cứ này, Tỉnh ủy đã chỉ đạo kháng chiến, mở nhiều lớp đào tạo, huấn luyện lực lượng vũ trang, cán bộ cơ sở cách mạng. Núi Bà cũng là bàn đạp mở nhiều đợt tấn công, nổi dậy trong chiến dịch Đồng khởi khu Đông năm 1964, chiến dịch Xuân Mậu Thân năm 1968 và cuộc tổng tiến công, nổi dậy mùa Xuân năm 1975 giải phóng Thị Xã Quy Nhơn và tỉnh Bình Định. Khu căn cứ Núi Bà là nơi ghi dấu về cuộc sống gian khổ, tinh thần chiến đấu kiên cường và những chiến công hào hùng của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, nhân dân Bình Định trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho đất nước. Di tích lịch sử và thắng cảnh Khu căn cứ Núi Bà được xếp hạng cấp quốc gia năm 1994, với 22 điểm di tích ở trên dãy Núi Bà thuộc thị trấn Cát Tiến và các xã Cát Hải, Cát Tài, Cát Hưng, Cát Hanh, Cát Thành của huyện Phù Cát. Tượng đài chiến thắng Núi Bà có địa thế đẹp “tựa sơn hướng thủy”, lại gần bãi biển Trung Lương, chùa ông Núi (Linh Phong) - vốn thu hút đông đảo du khách. Vì thế đây là điểm đến rất thích hợp để tổ chức các chuyến du khảo, dã ngoại về nguồn, đặc biệt là với các bạn đoàn viên, thanh niên. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.

Gia Lai 2427 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích lịch sử Cây số 7 Tài Lương

Đây là di tích lích sử ghi nhận về cuộc biểu tình (đêm 22 rạng ngày 23/7/1931) của hơn 3000 quần chúng nhân dân huyện Hoài Nhơn đấu tranh phản đối thực dân Pháp và bè lũ tay sai chấm dức đàn áp nhân dân Nghệ Tĩnh và Đức Phổ. Tháng 7 năm 1931, thực hiện chủ trương của Xứ ủy Trung Kỳ, Đảng bộ Hoài Nhơn đã tổ chức vận động quần chúng nhân dân xuống đường đấu tranh phản đối chính sách khủng bố trắng của đế quốc Pháp, đàn áp phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh và nhân dân Đức phổ Quãng Ngãi. Đêm 22 rạng ngày 23/7/1931, đoàn biểu tình hơn 3 nghìn người từ các xã phía Bắc huyện Hoài Nhơn tập trung thành các cánh quân sôi sục tiến về phủ đường Bồng Sơn. Đoàn biểu tình tiến đến đâu đều trấn áp đoàn phu, đốt trụi các điếm canh dọc đường. Khoảng 1h30 sáng ngày 23/7/1931, khi đoàn biểu tình kéo đến Cây số 7 Tài Lương ( xã Hoài Thanh Tây) thì bị binh lính địch chặn lại và đàn áp đẫm máu cuộc biểu tình. 13 Đảng viên và quần chúng đã hy sinh, một Đảng viên bị kết án tử hình, 3 Đảng viên bị kết án tù chung thân, 20 Đảng viên bị lưu đày lên nhà lao Buôn Mê Thuộc, 11 đồng chí bị đày lên ngục Kon Tum, 47 đồng chí bị giam cầm tại nhà lao Bình Định và hàng trăm quần chúng bị giam cầm tại nhà lao Phù Ly. Cuộc biểu tình đã làm rung chuyển bộ máy tay sai của chính quyền thực dân Pháp. Cuộc biểu tình tiêu biểu cho khí thế đấu tranh của công, nông trong cao trào 1930 - 1931; thể hiện ý chí sắt đá, một lòng kiên quyết bảo vệ và duy trì các phong trào cách mạng trong thời điểm khó khăn, ác liệt nhất của nhân dân Hoài Nhơn nói riêng và tỉnh Bình Định nói chung. Ngày 26.1.2011, Bộ trưởng Bộ Văn Hóa -Thể Thao &Du Lịch đã có Quyết định số 323 xếp hạng di tích quốc gia cho di tích lịch sử địa điểm lưu niệm cuộc biểu tình năm 1931 tại cây số 7 Tài Lương (xã Hoài Thanh Tây, huyện Hoài Nhơn). Nguồn Cổng thông tin điện tử thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.

Gia Lai 2370 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa