Nói đến Yên Thế là người ta nói đến hình ảnh Hoàng Hoa Thám - Người anh hùng áo vải đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế kéo dài nhất trong các cuộc khởi nghĩa chống lại ách thống trị của thực dân Pháp, kéo dài ngót 30 năm (1884-1913), là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu cho phong trào yêu nước của dân tộc ta trước khi có Đảng lãnh đạo. Hình ảnh người anh hùng áo nâu Hoàng Hoa Thám cùng những dấu tích về cuộc khởi nghĩa luôn in đậm trên các công trình kiến trúc gồm đình, đền, chùa, đồn lũy. Trong đó phải kể đến đền Cầu Khoai, một điểm di tích quốc gia đặc biệt thuộc xã Tam Hiệp, huyện Yên Thế. Di tích đền Cầu Khoai nằm cách thành phố Bắc Giang khoảng 30km, cách trung tâm thị trấn Cầu Gồ khoảng 2km về hướng Tây Bắc. Di tích đền Cầu Khoai hay còn gọi là đền Cô, một cách gọi để tưởng nhớ tới công ơn của 2 cô gái được thờ trong đền là Đàm Thị Dung Hoa sinh năm 1507 và Đàm Thị Quế Hoa sinh năm 1510, con của vị quan lớn Đàm Thận Huy dưới triều Lê-Mạc. Ông đã có nhiều công lớn với dân, với nước, được sử sách ghi nhận trong việc chống lại nhà Mạc. Khi Đàm Thận Huy mất, hai người con của ông là Đàm Dung Hoa và Đàm Quế Hoa tiếp tục cầm quân chống giặc thêm 3 ngày nữa. Khi lên đến bản Diễn, xã Tam Tiến, biết không thể chiến đấu được nữa, hai cô mới chịu tuẫn mình xuống dòng sông Sỏi với mục đích bảo toàn danh tiết. Để tưởng nhớ công ơn hai bà, người được dân địa phương lập đền tôn thờ. Sau này nhân dân địa phương lại dựng thêm một ngôi chùa phía sau đền thờ gọi là chùa Hoài Âm để cầu báo ân đức và lưu giữ tiếng thơm của hai cô con gái họ Đàm đã hy sinh ở vùng đất này. Đền Cầu Khoai là một trong số nhiều điểm căn cứ của nghĩa quân, là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử gắn liền với cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Quần thể di tích còn nằm trong số đất đai do nghĩa quân Yên Thế cai quản, xung quanh khu vực đền là cả một hệ thống đồn lũy. Tại đây, nghĩa quân Yên Thế và thực dân Pháp đã nhiều phen ở thế giằng co quyết liệt, nghĩa quân tiêu diệt được nhiều sinh lực địch. Rộng ra cả vùng đất Tam Hiệp là địa phận hoạt động mạnh mẽ của nghĩa quân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám chỉ huy cùng các tướng lĩnh của ông như Cả Trọng, Cả Dinh, Cả Huỳnh... Nhiều trận đánh ở vùng đất này đã được sử sách ghi lại như trận Đồn Hòn, Trại Tre, Đồn Hom, đồn Hang Sọ…Vùng đất và con người nơi đây đã cung cấp lương thực, thực phẩm và nhân lực cho căn cứ đồn Hom, góp phần không nhỏ trong việc đẩy lùi cuộc tấn công với quy mô lớn của thực dân Pháp lên Yên Thế ngày 23/5/1892. Đền Cầu Khoai được xây dựng vào năm 1524 và đã được trùng tu tôn tạo qua nhiều giai đoạn. Quần thể di tích hiện nay gồm các hạng mục công trình: Cổng đền, khuôn viên, khu đền chính và chùa Hoài Âm. Tất cả tọa lạc trong khu đất rộng đẹp nhìn ra quốc lộ 17 bên kia là khu căn cứ đồn Hom của nghĩa quân Yên Thế. Ngôi đền hiện có kiến trúc kiểu chữ đinh, gồm tòa tiền tế và hậu cung. Trong hậu cung bài trí tượng thờ 2 cô và các thị nữ hầu cận. Phía sau ngôi đền là chùa Hoài Âm được nhân dân địa phương xây dựng với ý nghĩa cầu báo ân đức siêu thoát cho linh hồn hai cô con gái họ Đàm. Để tưởng nhớ tới công ơn của hai cô con gái họ Đàm, vào ngày 23 tháng giêng hàng năm, Đảng ủy, UBND xã Tam Hiệp và nhân dân địa phương lại tưng bừng tổ chức lễ hội để tưởng nhớ, ôn lại truyền thống lịch sử vẻ vang, công lao to lớn của Đàm Thận Huy và 2 cô con gái; tôn vinh các tấm gương đã anh dũng, hy sinh trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Lễ hội được tổ chức gồm 2 phần gồm Lễ dâng hương và phần Hội được tổ chức với nhiều hoạt động văn hóa, thể thao, các trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc như: bịt mắt bắt dê, đập niêu, kéo co, hội diễn văn nghệ quần chúng, ném còn, chọi gà, cờ tướng, bóng đá... thể hiện tinh thần thượng võ và khát vọng tự do của người dân địa phương. Di tích đền Cầu Khoai không chỉ có ý nghĩa và giá trị về mặt lịch sử, Đền còn là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân, là điểm thu hút đông đảo các du khách thập phương trong và ngoài tỉnh về thăm quan, nghiên cứu. Với ý nghĩa lịch sử và giá trị của di tích, ngày 10/5/2012 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 548/QĐ-TTg về việc xếp hạng di tích Quốc gia đặc biệt đối với Di tích lịch sử “Những địa điểm khởi nghĩa Yên Thế”; trong đó đền Cầu Khoai xã Tam Hiệp là một trong 23 điểm di tích quốc gia đặc biệt./. NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH
Bắc Ninh 1836 lượt xem
Đến Bắc Giang du khách sẽ được tham quan, tìm hiểu về những giá trị lịch sử nghệ thuật của những ngôi chùa cổ kính, được khám phá trải nghiệm với những cảnh quan thiên nhiên kỳ thú mà tự nhiên ưu đãi cho Bắc Giang và Cụm di tích Tiên Lục là một trong những điểm dừng chân lý tưởng cho du khách gần xa. Nằm cách thành phố Bắc Giang khoảng 20km về phía Đông Bắc thuộc xã Tiên Lục huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Cụm di tích Tiên Lục gồm một quần thể di tích nằm trong không gian thoáng đãng, thơ mộng của một vùng trung du tràn đầy sức sống. Cụm di tích Tiên Lục gồm: Cây Dã Hương ngàn năm tuổi, đình Viễn Sơn, Chùa Phúc Quang, đình Thuận Hòa... Cụm di tích Tiên Lục đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc Gia và đã trở thành điểm đến hấp dẫn cho du khách trong và ngoài nước. Điểm đến thứ nhất đó là Cây Dã Hương nghìn năm tuổi. Theo các nhà khoa học, cây này được vua Lê Cảnh Hưng phong cho là “ Quốc chúa đô mộc Dã Đại Vương” Năm 1989, Bộ Văn hóa - Thông tin đã xếp cây dã hương ở Bắc Giang nằm trong quần thể cụm di tích quốc gia (gồm cây dã hương, đình Viễn Sơn, chùa Phúc Quang, đình Thuận Hòa...). Theo ước lượng, gốc cây dã hương to đến 8 người ôm, còn theo những người làm công tác nghiên cứu vòng đo điểm to nhất của thân cây là 11m, chỗ nhỏ nhất là 8,3m, cây cao khoảng 36m, có đường kính trên 2,5m. Lớp vỏ cây trung bình dày 15cm. Tán cây dã hương xòe phủ kín mái đình Tiên Lục, tạo ra một cảnh quan đặc sắc cho một vùng quê giàu di tích văn hóa. Hoa dã hương thường nở vào cuối xuân đầu hè, màu vàng nhạt, cánh nhỏ li ti và có mùi thơm tựa hoa dạ lan Cây không chỉ là nét đẹp của cảnh quan môi trường, cảnh quan thiên nhiên mà còn là nét đẹp văn hóa, biểu tượng rất đỗi mộc mạc, thân thiết, linh thiêng trong không gian văn hóa Việt. Theo người dân ở đây thì mỗi một cành cây gãy là thể hiện một sự kiện báo hiệu một sự chuyển biến lớn của đất nước như: Năm 1945 cành dã hương lớn phía đông bắc gãy là lúc Cách mạng Tháng Tám thành công; Năm 1954, cành phía tây gãy là năm chiến thắng Điện Biên Phủ; Năm 1964 cành phía nam gãy gắn với sự kiện Vịnh Bắc Bộ chiến tranh mở rộng ra miền Bắc; Năm 1975 cành phía tây gãy gắn với sự kiện giải phóng miền Nam thống nhất đất nước; Năm 2006 một cảnh ở đỉnh ngọn phía Nam gãy thì năm đó nước ta gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) Điểm đến tiếp theo đó là chùa Phúc Quang hay nhân dân vẫn gọi là Phúc Quang Tự - một ngôi chùa cổ đã gần 300 năm tuổi, nằm ngay cạnh đình Thuận Hòa và trụ sở ủy ban nhân dân xã Tiên Lục, huyện Lạng Giang, ở ven đường tỉnh lộ ĐT295 được coi là nơi thờ tự linh thiêng, có kiến trúc độc đáo và gắn với những câu chuyện kỳ bí nhất. Văn bia tại đây cho biết chùa được thành lập từ mùa xuân năm Long Đức thứ ba (20-3-1734) dưới thời vua Lê Thuần Tông, bên cạnh một ngôi chùa cổ hơn do sư cụ Chiếu Chiêm kêu gọi nhân dân hợp sức xây dựng. Trải qua gần 300 năm tuổi, hiện nay chùa vẫn lưu giữ được chiếc chuông lớn có từ ngày đầu và khoảng 90 pho tượng Phật giáo quý giá. Tuy nhiên những mảng điêu khắc gỗ đá hầu như đã không còn nữa.Trong suốt những năm tháng chiến tranh, mặc dù các xã xung quanh bị bom đạn oanh tạc đến xơ xác, riêng chùa Phúc Quang và xã Tiên Lục vẫn được bảo vệ an toàn. Nhân dân địa phương do đó càng tin chắc rằng chính ngôi chùa cổ đã trấn giữ vùng đất này, giúp họ an cư lạc nghiệp. Theo truyền thuyết xưa kia có một vị vua mặc thường phục vi hành, vô tình đi qua ngôi chùa Phúc Quang. Vì trước đó có hiềm khích với đạo Phật nên vị vua này đã để lại lời nguyền: bất kỳ nhà sư nào cũng không được ở trong chùa này. Người dân nghĩ đó chỉ là câu nói buột miệng của vua nên không để tâm.Cho đến sau này, có một thiền sư được giao đến trông nom chùa, nhưng vừa bước tới Tam Bảo đã bị rắn cắn nên sợ quá bỏ chùa. Những vị sư tiếp đó đến chùa chỉ ở được một thời gian rồi cũng phải ra đi. Dân chúng khi ấy mới nhớ đến vị vua lạ và bắt đầu lan truyền câu chuyện rắn thần ứng nguyện lời nguyền cản bước các vị sư.Gần đây nhất có sư Huệ Cửu về trụ trì từ năm 2010. Tuy nhiên, chưa đầy 3 năm sau, sư gọi xe giữa đêm, thu dọn hành lý bỏ đi không lời từ biệt, đến sáng người dân trong làng mới biết. Sau đó không ai nghe tin gì về sư Huệ Cửu nữa. Tiếp theo có vài vị sư khác đến thăm chùa cũng muốn ở lại, nhưng sau khi thắp hương khấn vái và nhìn cây hương có dòng chữ Nho họ đều lẳng lặng ra đi, không bao giờ trở lại... Chùa Phúc Quang gần đây phần lớn đã được trùng tu, nhìn chung vẫn mang dáng vẻ của nghệ thuật kiến trúc thời Nguyễn. Chùa tọa lạc trên một gò đất thấp, mặt quay hướng nam nhìn ra một sân gạch rộng có những cây nhãn lâu năm, xa hơn là vườn cổ thụ. Bên tiền đường hữu là dãy nhà giải vũ 3 gian 2 dĩ, bên tả là mặt sau của ngôi đình làng cũng mới tu sửa. Chùa được xây dựng với mặt bằng theo hình "nội Công ngoại Quốc". Tiền đường rộng 7 gian cửa bức bàn, hai bên thiêu hương có cặp tượng Hộ Pháp khá to. Thượng điện gồm đầy đủ những pho tượng Bắc Tông, ánh sáng chủ yếu lấy từ hai cửa ngách thông sang hai dãy hành lang nơi đặt các pho tượng La Hán và Bát bộ Kim Cương. Tất cả các tượng đều mới tô lại. Phía cuối hai hành lang nối liền tòa hậu đường làm theo kiểu hai tầng chồng diêm, có cầu thang dốc để lên gác chuông. Cuối cùng nằm trong cụm di tích Tiên Lục là Đình Thuận Hoà: Đình Thuận Hoà hay còn được nhân dân trong vùng quen gọi là đình Cây Bàng. Đình tọa lạc trên một khu đất rộng và bằng phẳng kề sát ngay đình là cây bàng cổ thụ um tùm quanh năm tỏa bóng mát, phía trước đình là đường 295 từ Vôi đi Tiên Lục, đình cách đồi thông chừng hơn 100m. Đình Thuận Hoà được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ XVIII, đình thờ 2 vị thành hoàng làng là Cao Sơn và quý Minh. Đình có lối kiến trúc hình chữ đinh gồm 5 gian đại đình và 3 gian hậu cung. NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH
Bắc Ninh 1833 lượt xem
Câu chuyện về núi Dành (xã Liên Chung và Việt Lập, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang) có sản vật tiến Vua-sâm Nam lưu truyền trong dân gian từ bao đời nay đã thôi thúc tôi tìm về khu di tích này. Từ TP Bắc Giang có nhiều đường để đến núi Dành nhưng tôi chọn đi theo Quốc lộ 17 rồi rẽ vào đường liên xã Việt Lập-Liên Chung. Đang là mùa đông nên hai bên đường là một màu xanh mướt của ngô, khoai lang và nhiều loại rau màu khác. Đi khoảng 5km từ lối rẽ, Khu di tích lịch sử văn hóa núi Dành đã hiện ra trước mắt tôi. Núi Dành nằm cách dòng sông Thương thơ mộng không xa, có đỉnh cao nhất khoảng 117 m so với mặt nước biển và là dãy núi lớn thứ hai của huyện Tân Yên sau núi Đót (xã Phúc Sơn). Nơi đây có cảnh quan thiên nhiên đẹp với rừng thông khoảng 50 năm tuổi. Nhiều người đến núi Dành có chung nhận xét như đang ở trong rừng thông TP Đà Lạt (Lâm Đồng). Anh Hoàng Tiến Dũng ở xã Mường Than, huyện Than Yên (tỉnh Lai Châu) nói: “Tôi biết núi Dành qua Internet đã lâu, nay mới có dịp tới thăm. Quả thật phong cảnh nơi đây rất đẹp, không khí trong lành, ngồi nghe thông reo thật lãng mạn. Nếu có dịp, tôi sẽ rủ người thân và bạn bè tới đây chơi”. Đường lên núi Dành được xây bậc gạch với tổng cộng 345 bậc thoai thoải. Ngay dưới chân núi là giếng Mũi Voi, sâu khoảng 2m, đã được xây bó bờ xung quanh. Người dân địa phương cho biết nước giếng luôn trong xanh và không bao giờ cạn. Tọa lạc ở núi Dành là đền Dành, công trình văn hoá tín ngưỡng của nhân dân địa phương. Quần thể đền Dành gồm 3 đền: Đền Trình (dưới chân núi), đền Thượng (trên đỉnh núi) và đền Hạ (khu vực lưng chừng núi). Đền Dành thờ thần Cao Sơn, Quý Minh, khi sống là những vị tướng tài giỏi, thác đi trở thành những vị thần linh thiêng, hiển thánh lại âm phù, giúp dân trừ tai diệt họa, được nhân dân nhiều đời thờ phụng. Không ai biết chính xác đền Dành được xây dựng từ khi nào nhưng căn cứ vào những tài liệu hiện vật di tích như cột đá, bát hương cổ, đồ tế khí, ngai thờ còn lưu giữ trong đền... thì công trình này được xây dựng từ thời Lê thế kỷ XVIII. Trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử, đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ngôi đền đã bị hủy hoại đi nhiều, không còn nguyên vẹn như xưa. Tuy nhiên, nhân dân nơi đây đã nhiều lần trùng tu, cải tạo, ngôi đền đã khang trang, đẹp đẽ hơn nhưng vẫn còn lưu lại nhiều nét cổ kính, riêng biệt. Đặc biệt, đền Dành hiện nay được cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương xây dựng lại vào năm 2017 với quy mô lớn hơn nhưng vẫn nằm trên cốt nền của ngôi đền cổ xưa theo lối kiến trúc kiểu hình chữ công, gồm tòa bái đường 3 gian nối với tòa hậu cung 2 gian bằng một dải ống muống. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược nước ta, đền Dành và núi Dành là trạm tiền tiêu để bộ đội ta phục kích bảo vệ vùng tự do. Cũng tại nơi đây, vào ngày 13/4/1950 có 2 chiến sĩ du kích là Nguyễn Bá Giai và Nguyễn Đình Khái đã anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ cảnh giới canh gác tiền tiêu Đến với Khu di tích núi Dành, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng cảnh quan bao la hùng vĩ mà còn được nghe câu chuyện lưu truyền trong dân gian về sản vật tiến Vua-sâm Nam của người dân nơi đây. Khu vực núi Dành xưa có lễ hội Bảo Lộc Sơn nổi tiếng khắp vùng. Đầu thế kỷ XIX, Bảo Lộc Sơn là một tổng thuộc huyện Yên Thế, phủ Lạng Giang gồm 4 xã: Bảo Lộc Sơn, Trung Sơn, Tưởng Sơn và Kim Tràng. Lễ hội Bảo Lộc Sơn hàng năm tổ chức vào ngày 16, 17 tháng Giêng, trung tâm tại quần thể di tích đình Um Ngò, xã Việt Lập. Lễ hội này là ngày hội tứ đình, còn gọi là tứ giáp, đặc trưng của các dòng họ: Thân, Giáp Nguyễn và Đồng…ở 4 làng: Kim Tràng, Khoát, Nguyễn và Um Ngò. 4 làng này có 4 ngôi đình, thờ 4 vị Thành Hoàng. Sau khi các làng Nguyễn, Kim Tràng, Khoát mở hội, thì rước kiệu về đình Um Ngò mở hội vào ngày 16 và 17 tháng Giêng, để rồi từ đó rước kiệu lên nghè Cả trên đỉnh núi Dành làm lễ mở đầu cho một năm. 4 lễ hội làng tụ lại thành lễ hội Bảo Lộc Sơn. Phần hội gồm những trò chơi như đu cây, chọi gà, đấu vật, thả diều... Những ước mong cầu mưa gió thuận hòa, dân khang vật thịnh. Lễ hội Bảo Lộc Sơn được khôi phục lần đầu năm 1996. Năm 2019, UBND xã Việt Lập tiếp tục tổ chức khôi phục lại lễ hội Bảo Lộc Sơn. NGUỒN SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH
Bắc Ninh 1887 lượt xem
Trong khu phố My Điền, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên còn bảo lưu được ngôi cổ tự có tên Thánh Minh tự. Có lẽ đây là ngôi chùa cổ độc đáo hiếm thấy ở Bắc Giang. Chùa được xây dựng từ thời Lý và đã được tu sửa nhiều lần. Những hiện vật ở chùa là minh chứng cho ngôi cổ tự đã được khởi dựng cách đây lâu đời. Đó là thành bậc đá xanh tạo tác hình rồng mang phong cách thời Lý (thế kỷ XI - XII) được đặt trước cửa chùa. Rồng có đặc điểm đầu có mào lửa, mũi và bờm được cấu tạo rất sinh động bằng những đường nét tự nhiên. Mào chùm lấy toàn bộ môi trên và quyện với răng nanh hình đám mây bồng bềnh đang bay. Bờm tỏa ra từ sau gáy hướng về phía sau lưng. Túm râu rồng mềm mại như làn sóng hướng về phía trước. Mũi rồng là những đường cong xếp chồng nhau tạo ấn tượng về nguồn nước, miệng nhe ra để lộ hai hàm răng đang ngậm ngọc. Râu và mào rồng hướng về phía trước tạo nên một hình ảnh giống chiếc lá bồ đề. Trong tư thế mềm mại tự nhiên như đang bay, rồng có 11 khúc, các khúc có cung độ đều nhau và uốn lượn, rồng có 4 chân 3 móng vuốt nhỏ nhắn. Nhiều nhà nghiên cứu nhận định đây là con rồng được tạo ở bậc thành thềm cửa chùa My Điền xưa. Theo đó sẽ có 2 con rồng đá ở thành bậc thềm cửa chùa, nhưng rất tiếc nay chỉ còn lưu giữ được một con. Cũng theo các nhà nghiên cứu văn hoá, con rồng thời Lý có mối quan hệ chặt chẽ với Phật giáo, nó đi liền với các hình tượng của Phật giáo như đức Phật, hoa sen, lá đề… điều đó khẳng định dưới thời Lý, vùng đất My Điền đã là nơi phát triển và hưng thịnh của Phật giáo Đại Việt. Chùa My Điền tọa lạc phía sau đình theo kết cấu kiến trúc kiểu “tiền Thần hậu Phật”, đình trước chùa sau tạo quần thể di tích liên hoàn cổ kính. Qua nhiều lần tu sửa, ngôi chùa hiện nay còn bảo lưu được các hạng mục công trình như: Tam quan, nhà Tổ 5 gian, nhà khách 3 gian và tòa tam bảo. Khuôn viên sân chùa rợp bóng cây xanh toả bóng mát. Giữa sân chùa còn lưu giữ tấm bia đá thời Lê, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 8 (1713) ghi về việc công đức tạo dựng bia đá và việc đúc chuông chùa. Qua khuôn viên sân chùa đến toà tam bảo, toà này có 5 gian tiền đường nối 3 gian thượng điện tạo bình đồ kiến trúc kiểu chữ đinh. Phần kết cấu kiến trúc các vì mái bên trong theo kiểu chồng cốn, giá chiêng, kẻ ngồi, các cấu kiện kiến trúc chạm khắc hình hoa lá có giá trị nghệ thuật. Trên thượng điện bài trí đầy đủ hệ thống tượng Phật. Các pho tượng mang phong cách thời Lê và thời Nguyễn có giá trị lịch sử nghệ thuật. Ngoài những hiện vật giá trị trên, chùa My Điền còn lưu giữ được nhiều tài liệu hiện vật có giá trị nghiên cứu lịch sử văn hoá nghệ thuật tiêu biểu như bát hương, bia đá, hệ thống hoành phi, câu đối… Đây là những căn cứ khoa học để khẳng định dưới thời Lý, chùa My Điền đã là trung tâm Phật giáo có quy mô, kiến trúc khá hoàn chỉnh và tôn nghiêm. Chùa My Điền là trung tâm sinh hoạt văn hoá tôn giáo, nơi tổ chức lễ hội truyền thống của nhân dân từ xưa tới nay. Hội lệ của làng diễn ra vào mùng 1 tháng 2 âm lịch với nhiều nghi lễ và các trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc để tạ ơn trời Phật đã ban cho cuộc sống ấm no hạnh phúc. Với giá trị lịch sử văn hoá độc đáo, chùa My Điền đã được xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh năm 2004. Mặc dù là nơi phát triển công nghiệp sầm uất nhưng My Điền ngày nay còn lưu giữ nhiều di sản văn hóa của dân tộc. Các công trình tôn giáo, tín ngưỡng như đình, nghè My Điền, lăng đá Quận công Ngô Đạt Dụng, lăng Nguyễn Đốc Thực, miếu Vua Bà… có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế du lịch địa phương. Đặc biệt, chùa Thánh Minh trong lòng khu phố đã và đang là địa chỉ hấp dẫn cho du khách tới lễ Phật. NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH
Bắc Ninh 1802 lượt xem
Trong hệ thống 23 địa điểm di tích quốc gia đặc biệt liên quan đến khởi nghĩa Yên Thế thuộc địa bàn các huyện Việt Yên, Yên Dũng, Tân Yên và Yên Thế thì Đình Hả, xã Tân Trung có vai trò rất đặc biệt. Đây chính là nơi Lương Văn Nắm làm lễ tế cờ chính thức phát động nghĩa quân khởi nghĩa chống thực dân Pháp. Đình Hả xưa thuộc về xã Thế Lộc, Tổng Yên Lễ, huyện Yên Thế nay thuộc thôn Đình Hả, xã Tân Trung, huyện Tân Yên. Sau đình là Chùa Hả. Bố cục theo lối “Tiền thần hậu phật”. Di tích này nằm trên sườn một quả đồi thấp, bao quanh là khu đồi là rừng lim xanh tốt. Theo truyền thuyết thì đình, chùa Hả được xây dựng vào thời Lê - Nguyễn thế kỷ XVII. Đây là Chứng nhân lịch sử trọng yếu trong Khởi nghĩa Yên Thế. Thông lệ, thường sau Lễ hội 15 và 16 tháng Giêng hàng năm, không gian quanh Đình Hả lại trở nên tĩnh lặng. Ngôi đình làng thâm nghiêm chìm vào sắc xanh của rừng lim trăm năm tuổi, nhưng những năm gần đây Khu di tích này sôi động với những hoạt động về nguồn. Nhiều trường học ở Tân Yên lấy nơi đây là điểm kết nạp đoàn viên, đội viên. Năm 2021 Tân Yên đầu tư xây dựng Đền thờ Lương Văn Nắm và nghĩa binh Yên Thế thì những hoạt động trên được gia tăng đáng kể. Theo truyền thuyết thì Đình, chùa Hả được xây dựng vào thời Lê - Nguyễn thế kỷ XVII. Đình Hả, có tên chữ là đình Thọ Linh thờ Thành hoàng là thánh Cao Sơn - Quý Minh. Kiến trúc của đình khi xưa gồm một toà tiền đình 3 gian 2 trái. Trong khoảng sân đình rộng rãi có tả vu và hữu vu, mỗi dãy 5 gian đối diện với nhau, tiếp đến toà đại đình 5 gian 2 dĩ và một hậu cung 3 gian. Phần kiến trúc các vì kèo theo lối cốn, kẻ, bẩy, con chồng. Phần trang trí chạm khắc tinh tế, theo các đề tài hoa lá, tiên múa. Nhưng ngôi đình đẹp đẽ này không còn, nguyên do là đã bị Thực dân Pháp phá hoại những năm 1885. Cuộc Khởi nghĩa Yên Thế, đã phát triển trở thành Phong trào Khởi nghĩa Yên Thế và kéo dài gần 30 năm (1884 – 1913). Từ sự kiện Đề Nắm tế cờ, phát động Khởi nghĩa Yên Thế, Đình, chùa Hả trở thành một di tích lịch sử mở đầu cho phong trào khởi nghĩa nông dân Yên Thế, đóng một dấu son đỏ thắm trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam thế kỷ XIX – XX. Với những giá trị lớn lao của Đình chùa Hả, ngày 10 tháng 3 năm 1994 di tích đình chùa Hả được Bộ văn hóa thể thao công nhận di tích lịch sử văn hóa. Ngày 10 tháng 5 năm 2012 Di tích đình chùa Hả là một trong 23 điểm nằm trong hệ thống: Những điểm di tích Khởi nghĩa Yên Thế của tỉnh Bắc Giang vinh dự được Nhà nước ra Quyết định xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt và trong 23 điểm di tích này, Đình chùa Hả chính là điểm trọng yếu. Theo thời gian, nhiều hạng mục của đình Hả đã bị xuống cấp. Nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân địa phương, năm 2023 Tân Yên triển khai Dự án tu bổ, tôn tạo đình Hả với các nội dung tu bổ đại đình, hậu cung và tôn tạo hạ tầng kỹ thuật với tổng mức đầu tư gần 8 tỷ đồng từ nguồn ngân sách nhà nước và nguồn huy động hợp pháp khác. Công trình đã hoàn thành đúng dịp kỷ niệm 140 năm Khởi nghĩa Yên Thế (1884- 2024). Gian giữa đại đình câu đối Nhân sinh tự cổ thùy vô tử; Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh (Xưa nay hỏi có ai không chết? Hãy để lòng son chiếu sử xanh) sáng rực rỡ. Trên 100 năm trước, người dân làng Hả mượn câu đối của tiền nhân để nói về người anh hùng áo vải của mình và nay nó như càng sáng hơn. Đình Hả sẽ mãi lưu danh cùng tên tuổi người anh hùng áo vải Lương Văn Nắm- vị thủ lĩnh đầu tiên của Khởi nghĩa Yên Thế. NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH
Bắc Ninh 1836 lượt xem
Huyện Tân Yên (còn gọi là vùng Yên Thế hạ xưa) là vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử văn hóa, địa linh sinh nhân kiệt. Những truyền thống đó đến nay còn được lưu giữ trong những phong tục tập quán, trong những mái đình, mái chùa cổ kính nơi gắn liền với tên tuổi những người con kiệt xuất của quê hương cầu vồng lịch sử như: Khu mộ nàng Dương Thị Giã một vị nữ tướng giỏi dưới thời Hai Bà Trưng; Đình vồng thờ 18 vị quận công dòng họ Dương tại Vân Cầu đã giúp nhà Mạc đánh đuổi quân xâm lược; Cụm di tích đình, chùa Hả nơi thờ Lương Văn Văn Nắm vị thủ lĩnh đầu tiên của cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế; Đền Trũng nơi thờ Hoàng Hoa Thám vị thủ lĩnh thứ 2 trong cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế; đặc biệt trong đó phải kể đến chùa Tứ Giáp nơi đóng quân, hội họp của nhiều đơn vị trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Chùa Tứ Giáp thuộc địa phận thị trấn Nhã Nam, vị trí được coi như cửa ngõ phía Bắc của huyện Tân Yên kết nối ba huyện với nhau đó là huyện Tân Yên, Yên Thế(tỉnh Bắc Giang), Phú Bình tỉnh Thái Nguyên. Trước năm 1945 nơi đây thuộc tổng Nhã Nam, huyện Yên Thế, nay thuộc thị trấn Nhã Nam, huyện Tân Yên. Chùa Tứ Giáp được xây dựng từ thời Lê theo lối kiến trúc nội công ngoại quốc bề thế gồm 7 gian tiền đường, 5 gian trung đường, 3 gian tam bảo, 1 nhà tổ, nhà khách, nhà ni sư. Hệ thống tượng trong chùa phong phú, đầy đủ được bài trí thuần Việt, chùa còn có quả chuông nặng đến mấy trăm cân. Tuy nhiên, năm 1885 để trả thù nghĩa quân Yên Thế, thực dân Pháp đã điên cuồng tàn phá làng mạc, đình chùa lấy gỗ về xây dựng căn cứ đồn bốt của chúng. Năm 1886 nhân dân bốn giáp gồm giáp Nguộn, giáp Thượng, giáp Hạ, giáp Chuông hưng công xây dựng lại ngôi chùa với tên gọi Tứ Giáp bởi bốn giáp cùng chung tay làm lại chùa. Chùa mới gồm tòa tiền đường, nhà chung, phật điện, nhà tổ, nhà tăng ni, cổng tam quan có gác chuông, tường bao quy củ khang trang. Đến năm 1947 một lần nữa chùa Tứ Giáp lại bị thực dân Pháp tàn phá khi càn quét qua Nhã Nam tấn công lên Yên Thế. Tại chùa Tứ Giáp đã xảy ra trận đụng độ giữa ta và địch. Chùa bị hư hỏng nặng chỉ còn lại toà tiền đường 7 gian, trên cột trụ còn in hằn vết đạn. Cùng với dòng chảy lịch sử, chùa Tứ Giáp và thôn Nguộn của xã Nhã Nam, đã trải qua và “chứng kiến” nhiều sự kiện lịch sử quan trọng. Nơi đây hội tụ các tuyến giao thông thiết yếu, có thể tiến về vùng đồng bằng của Bắc Giang, Bắc Ninh và rút lên khu vực rừng núi Thái Nguyên, Bắc Kạn. Vì thế, chùa Tứ Giáp đã được chọn là một trong những địa điểm làm cơ sở cách mạng quan trọng của Đảng bộ Bắc Giang trọng thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Đây cũng là nơi đóng quân và làm việc của Báo cứu quốc (3/1945), Ty bưu chính Bắc Giang (cuối năm 1945), Bưu điện tỉnh và Ty Công an Hà Bắc (nay là Công an tỉnh Bắc Giang). Đặc biệt, chùa Tứ Giáp là nơi ở và làm việc của Công an Khu 12 trong thời gian tư cuối năm 1946 đến khoảng tháng 4 năm 1948. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp tuy bị thực dân pháp đánh phá nhiều lần nhưng chùa Tứ Giáp vẫn là nơi an toàn để các cơ quan huyện, tỉnh, trung ương chọn làm nơi mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn, bàn kế hoạch thực hiện nghị quyết chia ruộng cho dân tăng gia sản xuất... Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chùa Tứ Giáp đã chứng kiến nhiều cuộc tiễn đưa con em lên đường nhập ngũ tham gia chiến đấu ở mặt trận phía Nam góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trải qua thăng trầm của lịch sử, chùa Tứ Giáp ngày nay không còn như cũ mà chỉ còn tiền đường cùng toà chùa trung, toà tam bảo làm theo lối cổ. Trong chùa còn khá nhiều các pho tượng phật bằng gỗ sơn son thếp vàng. Chùa Tứ Giáp không chỉ là nơi sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh của người dân trong vùng mà còn là một địa điểm mang dấu lịch sử cách mạng. Đặc biệt, là nơi phát tích 6 điều Bác Hồ dạy lực lượng Công an Nhân dân. Tại nơi đây, đồng chí Hoàng Mai- Giám đốc Công an Khu VII đã vinh dự được đón nhận bức thư của chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 11/3/1948, trong thư Người đặc biệt ân cần dặn dò Công an ta là Công an của dân, vì dân mà phục vụ, biết dựa vào dân để làm thì việc gì cũng xong. Trong đó, Bác nhấn mạnh sáu tư cách của người “công an cách mệnh”, vì vậy, nơi đây được coi là nơi khởi nguồn của Sáu điều Bác Hồ dạy CAND. NGUỒN DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG
Bắc Ninh 2218 lượt xem
Chùa Kem hay còn gọi là Sùng Nham tự, thuộc tổ dân phố Kem, thị trấn Nham Biền, huyện Yên Dũng (Bắc Giang) không chỉ là trung tâm sinh hoạt văn hóa tôn giáo, nơi đây còn từng là căn cứ của những nghĩa quân, du kích cách mạng ở nhiều thời kỳ, trong đó có nghĩa quân Yên Thế. Chùa Kem - di tích lịch sử cấp quốc gia đặc biệt đã và đang được giữ gìn chu đáo, thu hút đông đảo khách thập phương tới vãn cảnh, lễ chùa. Khuôn viên chùa Kem rộng rãi, với nhiều cây cổ thụ tỏa bóng mát, tạo lên khung cảnh yên bình, linh thiêng. Từ Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng, chúng tôi cho xe chạy trên con đường dài chừng hơn 1km vừa được làm mới hướng thẳng về chùa Kem. Bên đường là hàng cây bồ đề đang lên xanh tốt. Đồng chí Lê Thị Minh Hiền, Phó Giám đốc Trung tâm Văn hóa - Thông tin và Thể thao huyện Yên Dũng cho biết: "Tuyến đường được làm mới tạo điều kiện kết nối tour tuyến du lịch tâm linh giữa chùa Vĩnh Nghiêm - Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng - chùa Kem. Điều này cũng mở ra cơ hội để giới thiệu, quảng bá giá trị văn hóa, lịch sử ngôi chùa Kem - nơi đã từng chứng kiến với bao thăng trầm lịch sử dân tộc". Trong khuôn viên chùa Kem có nhiều cây cổ thụ, quanh năm xanh tốt. Thế đất được tận hưởng sự ưu đãi của thiên nhiên, mùa đông thì có núi cao cản gió Đông Bắc, mùa hè thì hưởng gió mát từ hướng Nam thổi về, càng làm cho cảnh chùa thêm yên bình, linh thiêng. Theo sổ sách đã chép, chùa Kem được xây dựng cách đây khoảng 400 năm, triều vua Lê Anh Tông. Vị sư tổ hưng công xây dựng chùa là bà Hoàng Thị Tuế, theo dòng thiền phái Trúc Lâm do Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập. Toàn bộ công trình kiến trúc của chùa Kem được tạo dựng trong một khu đất có tổng diện tích cả khuôn viên là gần 2.000 m2. Tổng thể ngôi chùa gồm: Cổng tam quan, vườn tháp, tòa tiền đường, thượng điện và nhà tổ. Được biết, nơi chùa Kem tọa lạc có địa thế rất đặc biệt, hai bên tả, hữu và sau lưng đều tựa vào dãy núi Nham Biền, mặt nhìn ra cánh đồng bằng phẳng cùng con đường độc đạo dẫn vào chùa. Chính vì thế, nơi đây không chỉ là trung tâm sinh hoạt văn hóa tôn giáo, mà còn được chọn làm căn cứ của những nghĩa quân, du kích cách mạng ở nhiều thời kỳ chiến tranh giải phóng dân tộc. Năm 1884, Nguyễn Cao người làng Cách Bi (thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) cùng nghĩa quân đã về chùa Kem xây dựng căn cứ chống thực dân Pháp. Du khách nghe giới thiệu về những nét văn hóa, lịch sử đặc sắc của chùa Kem. Đặc biệt, khoảng năm 1906 - 1908, Hoàng Hoa Thám cùng nghĩa quân Yên Thế đã về đóng quân ngay ở phía sau vườn chùa. Đề Thám đã cho đắp lũy, làm tường thành, làm nhà, luyện tập quân sự, tạo nơi đây như một khu căn cứ chống Pháp. Hiện nơi đây vẫn còn lưu lại dấu tích của tường lũy, nền nhà quan, giếng quan, trạm gác, cột cờ, thùng đá chứa nước cho ngựa uống đồng thời là chỗ mài gươm đánh giặc… Phía sau nhà chùa còn có bãi luyện quân của nghĩa quân Đề Thám năm xưa. Khu đất rộng chừng vài mẫu nằm trên một địa thế bằng địa, bên cạnh là dòng suối chảy qua. Có thể nói, vị trí này rất thuận lợi cho nghĩa quân luyện tập. Khi có địch, dễ dàng nhanh chóng rút lên núi, thoát xuống dòng sông Thương thơ mộng ngay chân núi Nham Biền… Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thị trấn Nham Biền trở thành khu du kích kháng chiến; chùa Kem trở thành trung tâm chính trị, quân sự của địa phương. Hòa bình lập lại, nhà chùa là nơi hội họp, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhờ những giá trị về văn hóa, tôn giáo cũng như lịch sử cách mạng, năm 2012, chùa Kem đã được Thủ tướng Chính phủ ra quyết định công nhận là một trong 23 điểm di tích lịch sử cấp quốc gia đặc biệt gắn với cuộc khởi nghĩa Yên Thế. NGUỒN DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG
Bắc Ninh 1976 lượt xem
Lăng họ Đoàn xã Vân Trung nằm cách trung tâm thành phố Bắc Giang khoảng 12 km về phía nam, từ thành phố Bắc Giang xuôi theo quốc lộ 1A mới qua khu công nghiệp Đình Trám khoảng 10 km, rẽ trái theo đường đi Vân Trung – Trúc Tay khoảng 2 km nữa, rẽ trái tới thôn Bài Xanh, qua 45 m đường đồi là tới Lăng họ Đoàn. Lăng họ Đoàn xã Vân Trung Lăng họ Đoàn tọa lạc trên núi Hình Nhân thuộc non Bài Xanh của dẫy Nham Biền. Thời Hậu Lê ( Thế kỷ thứ XVIII) Lăng họ Đoàn thuộc Thôn Nội An, xã Vân Cốc, tổng Hoàng Mai. Từ năm 1965 đến nay Lăng họ Đoàn thuộc xã Vân Trung huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang. Lăng được xây dựng từ thời vua Lê Trung Hưng thế kỷ thứ XVIII, giai đoạn đời vua Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng ( 1740 – 1786). Đây là nơi an nghỉ của Đoàn Công Bạo hay còn gọi là Đoàn Đăng Đán, vị quan thời Lê Trung Hưng, ông đã có nhiều công lao phò vua giúp nước. Khu lăng nhìn về hướng Tây Nam, phía trước là núi Hình Nhân, xa xa là dòng sông Cầu chảy uốn lượn, hai bên tả hữu đều là những ngọn núi của dải Nham Biền hùng vĩ. Khu lăng được xây dựng theo lối kiến trúc cổ, theo một trục dọc hình chữ nhất, các hạng mục công trình xây dựng nằm cao dần từ trong ra ngoài theo độ nghiêng của sườn núi, bao gồm tường bao xung quanh, cổng lăng, khu thờ lộ thiên, tượng đá, tượng người và tượng thú, Tiêu Dao Am. Tượng người và linh thú ở cổng Lăng Tiêu Dao Am Hiện nay, các hạng mục công trình vẫn còn đầy đủ, mang nét kiến trúc nghệ thuật cổ kính. Cổng lăng tạo theo lối kiến trúc mái vòm, Tiêu Dao Am tạo hai tầng mái đều được xây bằng gạch cổ thời Lê ( Thế kỷ XVIII ), tất cả đều toát lên vẻ nâu trầm cổ kính cho khu lăng. Hệ thống tượng người Võ sỹ, hầu Nữ và Linh Cẩu được bài trí cân đối theo trục đối xứng đăng đối từ ngoài vào trong tạo sự uy nghiêm, cổ kính. Do sự xâm thực của thời gian và chiến tranh, phần nền lát gạch khu sân vườn lăng nay không còn, một phần góc cổng lăng bị ảnh hưởng của đạn pháo giặc pháp bị vỡ nứt. Khu tường bao hiện chỉ còn khoảng 10m tường xây đá ong cổ, còn lại là phần tường xây bằng đá nhám. Một số pho tượng đá bị gẫy, nứt đã được phục chế và hàn gắn lại. Mặt khác lăng họ Đoàn được xây dựng trên non Bài Xanh xa khu dân cư nên việc trông coi, phát huy giá trị di tích còn hạn chế. Khu lăng mộ còn nhiều cây cỏ dại xâm thực. Lăng xây dựng lộ thiên không có cánh cửa cổng đóng, tường bao xung quanh lăng thấp nên khó bảo vệ được các hiện vật, đồ thờ bên trong lăng. Thực tế năm 1980, khu lăng mộ đã bị kẻ gian dỡ mất một phần tường đá ong, phá hỏng một số pho tượng và lấy đi chân dung cụ Đoàn Đăng Đán. Những năm gần đây, được sự quan tâm của dòng họ, nhất là sự chỉ đạo của chính quyền địa phương, khu lăng đá họ Đoàn đã được trông coi cẩn thận, các cây cỏ bụi được phát quang sạch sẽ. Những pho tượng bị hỏng đã được hàn gắn lại, phần tường bao được xây vây quanh bằng đá Nhám. Dòng họ Đoàn cũng đang có dự định lát lại phần nền bằng gạch truyền thống khu nội tự trong khuôn viên lăng, khôi phục lại tượng chân dung cụ Đoàn Đăng Đán trong Tiêu Dao Am để trả lại cảnh quan giá trị nguyên gốc cho khu lăng đá. Nhằm bảo vệ công trình văn hóa tâm linh Lăng họ Đoàn xã Vân Trung, ngày 31/12/2015, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang đã ra Quyết định số 2370, xếp hạng Lăng họ Đoàn là di tích lịch sử - văn hóa. Đây là một điều kiện thuận lợi để di tích được bảo vệ và phát huy những giá trị di sản văn hóa của cha ông để lại cho hôm nay và mai sau. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THỊ XÃ VIỆT YÊN TỈNH BẮC GIANG
Bắc Ninh 2020 lượt xem
Đền Thượng hay còn gọi là Đền thờ Thạch Linh Thần Tướng. Theo các nguồn tài liệu lịch sử, tài liệu Hán Nôm như: Thần tích xã Thượng Lát, tổng Tiên Lát, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; sách Truyện dân gian vùng Quan họ - Bà Chúa Kho; sách Bắc Ninh dư địa chí; sách Địa chí Bắc Giang. Từ điển; sách Địa phương chí tỉnh Bắc Ninh qua tư liệu Hán Nôm: Đền Thượng có lịch sử xây dựng từ lâu đời và được tu bổ, tôn tạo vào thời Nguyễn (thế kỷ XIX-XX) và các giai đoạn sau này. Lịch sử hình thành đền Thượng gắn liền với truyền thuyết dân gian về Thạch Linh Thần Tướng. Đây là một vị Thần có tài năng và sức mạnh đặc biệt, đã lập nhiều chiến công kỳ vỹ giúp nhà vua Hùng Tạo Vương đánh thắng giặc Man. Sau khi thắng trận, Thạch Tướng đã cưỡi voi trở về nơi đã sinh ra mình ở trang Tiên Lát, trèo lên ngọn núi Phượng Hoàng, chỗ đỉnh cao nhất rồi bay thẳng lên trời biến mất. Để tưởng nhớ đến công trạng của ông, nhà Vua đã ra lệnh cho nhân dân địa phương và bách quan trở về chỗ hóa (tức đỉnh ngọn núi Phượng Hoàng) để hành lễ rồi lập đền thờ ông tại đỉnh ngọn núi Phượng Hoàng. Ban đầu ngôi đền được xây dựng với một gian theo kiểu cuốn vòm, nguyên liệu dựng đều bằng đá được lấy tại núi Phượng Hoàng, bên trong đền đặt một bát hương. Trải qua thời gian, với sự linh thiêng, huyền bí, ngôi đền dần dần trở lên nổi tiếng khắp vùng. Mặt khác, đền Thượng cùng với các di tích khác trong sơn môn Bổ Đà như: Ao Miếu, chùa Bổ Đà, đền Trung, đền thờ Độc Cước, đền Bà chúa Kho... đã tạo thành một quần thể di tích liên hoàn, phản ánh đậm nét một thời kỳ lịch sử đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc. Đền Thượng tọa lạc ở ngọn núi Phượng Hoàng thuộc dãy Bổ Đà sơn, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên nay là thị xã Việt Yên. Núi Bổ Đà là tên gọi chung cho cả dãy núi thuộc xã Tiên Sơn. Trong dãy núi Bổ Đà có ba ngọn núi lớn, mỗi ngọn mang một tên riêng. Cao nhất là Phượng Hoàng, có nhiều đá, thông mọc rậm rạp. Ngọn thứ hai là Mã Yên sơn và ngọn thứ ba là Kim Quy sơn. Các dải núi nhấp nhô, cây xanh tươi tốt quanh năm. Bao quanh đền Thượng còn có nhiều cây cổ thụ xanh tươi toả bóng mát với các ngọn núi lớn chầu về; có lục bộ Tiên Sa như: Bộ Trắng, Bộ Ngạnh, Bộ Không, Bộ Trề, Bộ Trạ. Ngoài ra còn có núi Con Cóc, núi Chùa Khám, ngọn Trúc Lát, ngọn Con Voi, ngọn Bàn Cờ Tiên... Phía trước đền Thượng là cánh đồng và dòng sông Cầu bao bọc uốn lượn như một dải lụa. Đây thực là chốn địa linh, sơn thủy giao hòa. Theo nhận định trong bài viết của Nguyễn Huy Bỉnh về Truyền thuyết Thạch Tướng Quân trong mối tương quan với tín ngưỡng thờ đá cho biết: “Tất cả họp thành một không gian địa lý hết sức lý tưởng. Trong môi trường địa lí nhân văn ấy, truyền thuyết Thạch Tướng Quân đã mang những đặc điểm và dấu ấn địa phương hóa của vùng đất khá rõ rệt.” NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH
Bắc Ninh 2036 lượt xem
Chùa Phúc Lâm là một ngôi chùa cổ được xây dựng trên một dải địa linh nằm cách khu dân cư khoảng 500 m, nơi đây xưa kia là rừng rậm có nhiều loài cây cổ thụ và thảo mộc quý hiếm. Chùa được xây dựng vào niên hiệu Chính Hòa thời vua Lê Trung Hưng trị vì (1681 – 1704). Tương truyền rằng: Người khai sơn chùa là Tổ Thiện Phát dòng Lâm Tế, là tăng chúng ở chốn tổ Bổ Đà xã Tiên Sơn huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang. Sau khi tổ quy tịch, trải qua nhiều trăm năm, chùa vẫn có tăng do chốn tổ Bổ Đà điều về lo công việc phật pháp. Năm 1945, nghe theo tiếng gọi của Đảng, thực hiện “ Tiêu thổ kháng chiến”, Chùa Phúc Lâm cổ xưa đã hóa thành tro bụi, chỉ còn là dải đất hoang tàn. Năm 1954, hòa bình lập lại, phật tử và nhân dân địa phương đã cùng nhau xây dựng lại chùa và mấy ngôi bệ tượng phật để lấy nơi thờ cúng và tín ngưỡng Tam bảo. Trong khoảng 50 năm, chùa vắng bóng sư trụ trì, vì thế chùa bị xuống cấp trầm trọng. Phật tử và nhân dân địa phương đã tu sửa nhiều lần nhưng cũng chỉ là phương pháp tạm thời. Năm 2002, Hội người cao tuổi thôn Phúc Lâm đã đến gặp sư thầy Thích Thiếu Hương lúc đó đang trụ trì tại chùa Hưng Đạo thôn Đạo Ngạn 1 xã Quang Châu, tha thiết mong ông về kiêm nghiệm trụ trì chùa Phúc Lâm để người dân nơi đây được gần đạo pháp và giáo lý của Đức phật và đạt được sự an lạc, giải thoát ngay trong đời sống hiện tại. Sau khi về trụ trì chùa Phúc Lâm, thấy điều kiện sinh hoạt của chùa chỗ nào cũng thiếu trước, hụt sau, đường vào chùa thì nhỏ hẹp, do vậy hòa thượng Thích Thiếu Hương đã cùng với phật tử và nhân dân trong thôn với tinh thần thượng cầu phật đạo, hạ hỏa chúng sinh mà đức phật đã dậy, quyết tâm phục hưng khu địa linh thành Trung tâm phật giáo của huyện Việt Yên. Từ năm 2004 – 2016, từ các nguồn tiền công đức của phật tử, nhà chùa đã xây dựng được ngôi Tam bảo, nhà tổ, nhà khách, lầu chuông, lầu trống, tường rào chùa, nhà tăng, phòng họp, cổng Tam Quan, hồ, tượng Quán Thế Âm Bồ Tát, vườn tháp… với số kinh phí lên tới hàng chục tỷ đồng, tất cả với mục đích cầu cho thế gian được hòa bình, nhân dân được an lạc. Chùa Phúc Lâm đã thật sự trở thành Trung tâm Giáo hội phật giáo của huyện Việt Yên. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THỊ XÃ VIỆT YÊN TỈNH BẮC GIANG
Bắc Ninh 2206 lượt xem