Rừng Khuôn Thần có diện tích khoảng 800 ha, trong đó có 300 ha rừng tự nhiên và 500 ha là rừng trồng, rừng tái sinh và đồng cỏ. Hồ Khuôn Thần rộng 240 ha, được bao bọc bởi những rừng thông, tràm, keo tai tượng tươi tốt quanh năm. Lòng hồ có 5 đảo nhỏ là những vùng đồi bát úp nổi lên giữa làn nước xanh, các đảo đều được trồng thông có tuổi từ 15 – 20 năm. Khuôn Thần còn nổi tiếng với những trang trại vườn cây ăn quả ngút ngàn tầm mắt, với đền Từ Mã thờ danh tướng đời Trần đã được Nhà nước xếp hạng di tích và nhiều nét đẹp văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số như: Sán Chí, Cao Lan, Nùng, Tày… Đến Khuôn Thần, du khách sẽ có cơ hội khám phá “lá phổi xanh của miền Lục Ngạn” với 5 đảo thông xanh tốt quanh năm, đồng thời du thuyền trên mặt hồ, ngắm cảnh trời mây non nước. Đặc biệt, vào mùa mưa, du khách có thể quan sát nước chảy từ đỉnh đập Khuôn Thần đổ ào ào xuống thung lũng ven hồ. Du khách đến Khuôn Thần không chỉ được dạo chơi trên hồ bằng thuyền mà còn được ghé thăm các trang trại vườn cây ăn trái xanh tươi rộng ngút ngàn tầm mắt. Đây cũng là cư trú, nuôi dưỡng và bảo tồn những giá trị văn hoá độc đáo của đồng bào dân tộc thiểu số như: người Sán Chí, Cao Lan, Tày, Nùng… Tới đây, du khách sẽ có cơ hội thưởng thức hương vị ngọt ngào của những đặc sản: mật ong, rượu tắc kè, hạt dẻ, vải thiều, hồng, na… của đồng bào các dân tộc như Kinh, Cao Lan, Tày, Sán Chỉ, Nùng. Đặc biệt phải kể đến là món cá. Ai đã từng thưởng thúc món cá bống nướng trên bếp than của đồng bào dân tộc nơi đây thì không thể nào quên. Nếu những ai thích cảnh hoang dã chốn “thần tiên” thì có thể ghé thăm các đảo nổi là những vùng đồi bát úp nổi lên giữa lòng hồ. Không gian tĩnh lặng, bình yên, trữ tình rất hợp cho những câu chuyện tâm tình trên thảm cỏ xanh… dưới những hàng thông vi vu trong gió mát. Những khi cảm thấy mệt mỏi bạn có thể thấy ngay những cánh võng đu đưa dưới những gốc cây trong vườn nhãn. Bạn có thể vừa nằm võng, vừa thưởng thức hương vị ngọt đậm đà của những chùm vải thiều chín mọng. Không những thế, đến đây du khách còn được tham quan đền Từ Mã thờ danh tướng đời Trần đã được Nhà nước xếp hạng Di tích. Đặc biệt, nếu qua đêm ở đây vào những dịp nông nhàn, du khách sẽ có cơ hội tham dự các buổi sinh hoạt văn hoá truyền thống với những điệu hát soong hao, si, lượn... làm say đắm lòng người của đồng bào dân tộc ít người sinh sống quanh khu vực hồ. Vui thú nhất là chẳng phải đến tận Đà Lạt mới có thể nghe tiếng thông reo rì rào, mà còn được khám phá sự kỳ thú của thiên nhiên hoang dã với những con đường mòn vắt qua các sườn núi, khe suối trong vắt quanh co, uốn khúc. Khuôn Thần hiện có nét đẹp hoang sơ rất gần với thiên nhiên tạo một sức hút lớn đối với mọi du khách. Tuy nơi đây chưa xuất hiện những khách sạn sang trọng, những nhà hàng, nhà nghỉ với đầy đủ tiện nghi… nhưng du khách sẽ có cảm giác thoải mái, nhẹ nhàng. Vào những ngày Xuân, Hè du khách đến đây có thể được vơi đi những suy tư, phiền muộn. Thong thả đi dạo hồ, đắm mình vào bầu không gian mênh mông của mặt nước hồ xanh biếc, in bóng mây trời và và ngắm cảnh chiều hoàng hôn có bầy trẻ đuổi từng đàn trâu về, thật quyến rũ và lãng mạn. Vào những buổi Thu, Đông du khách có thể thả mình bên những chiếc cần câu, thư giãn bồng bềnh trên lòng hồ, đầm ấm bên những bếp lửa, cùng thưởng thức những vật phẩm mà mình thu hoạch được từ tự nhiên và ngắm mặt nước tĩnh lặng, cảm nhận sự khoan khoái những đợt gió heo may lùa thổi… Hồ Khuôn Thần cũng là nơi rất thích hợp để xây dựng những trung tâm nghỉ dưỡng, khu vui chơi giải trí với các loại hình mới, như: chèo thuyền, leo núi, đi bộ dạo quanh hồ và vào thăm các làng bản của đồng bào dân tộc… Sau cuộc du ngoạn đầy kỳ thú và mệt mỏi, du khách có thể thư giãn bồng bềnh trên những con thuyền mộc lướt trên mặt nước lăn tăn sóng, hòa mình cùng thiên nhiên, lắng nghe chim hót, nhìn những khóm hoa rừng khoe sắc, được nghe những làn điệu dân ca mượt mà, đằm thắm. Và khi đó, du khách sẽ cảm thấy thú vị, lâng lâng như lạc vào cõi hư vô, huyền ảo nơi sơn trang rộng lớn… NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH BẮC GIANG
Bắc Ninh 1596 lượt xem
Đến với Bắc Giang, một trong những điểm du lịch không thể bỏ qua đó là Khu du lịch tâm linh sinh thái Tây Yên Tử. Đây là điểm đến cuối cùng trong hành trình Tour du lịch tâm linh theo con đường bộ hành hoằng dương Phật pháp của Phật Hoàng Trần Nhân Tông và các đồ đệ qua những điểm chùa, tháp dọc sườn tây dãy núi Yên Tử. Khu Du lịch Tâm linh - Sinh thái Tây Yên Tử thuộc thị trấn Tây Yên Tử huyện Sơn Động tỉnh Bắc Giang, cách TP Hà Nội khoảng 140km về hướng Đông Bắc. Từ Hà Nội, quý khách di chuyển theo tuyến cao tốc Hà Nội – Bắc Giang, đến nút giao TP Bắc Giang thì rẽ phải vào tỉnh lộ 293 - đường Tây Yên Tử (hay còn gọi là đường tâm linh), đi theo biển báo chỉ dẫn khoảng 70km là đến Khu Du lịch. Khi nói tới Tây Yên Tử phải nói tới dòng thiền Trúc Lâm. Thiền phái Trúc Lâm là dòng thiền mang triết lý thuần Việt, do Phật Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập ở thế kỷ XIII. Thiền phái Trúc Lâm là linh hồn của hệ thống non thiêng Yên Tử, nó trở thành niềm tự hào của mỗi người dân đất Việt. Hành hương về Tây Yên Tử, du khách vừa được chiêm bái thắng tích tôn giáo nổi tiếng và cảm nhận vẻ đẹp bình yên, thơ mộng của vùng đất Bắc Giang. Núi Yên tử nằm trên cánh cung Đông Triều ôm gọn vùng đông bắc Việt Nam, sườn đông chủ yếu thuộc tỉnh Quảng Ninh, sườn tây thuộc các huyện Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam và Yên Dũng tỉnh Bắc Giang. Hiện tại khu vực Tây Yên tử còn lưu lại nhiều di tích, công trình lịch sử-văn hóa liên quan đến tôn giáo, gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, nhất là vào thời Lý-Trần. Với hệ thống các chùa tháp, di tích lịch sử-văn hóa và sự kỳ vĩ của núi rừng trùng điệp, thảm thực vật và nhiều loài động vật phong phú đã tạo nên một Yên Tử đầy tiềm năng. Cùng với Đông Yên Tử của Quảng Ninh, Tây Yên Tử Bắc Giang được phối hợp, kết nối thành quần thể danh thắng Yên Tử thống nhất, tạo điều kiện cho phát triển du lịch, phát huy các di sản văn hóa mà cha ông ta để lại. Khu du lịch Tây Yên Tử được khởi công xây dựng năm 2014 và đưa vào khai thác giai đoạn I năm 2019. Khu du lịch được ưu ái nằm bên khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tửvới hàng nghìn hecta rừng nguyên sinh cùng nhiều loài động vật hoang dã. Đây chính là lợi thế trong việc mang đến cho du khách cả nước những trải nghiệm khác biệt trong suốt quá trình tham quan, hành hương về vùng đất Phật. Quy hoạch tổng thể của KDL được chia thành 02 phân khu chức năng: phân khu tham quan sinh thái – tâm linh và phân khu nghỉ dưỡng sinh thái – giải trí. Phân khu tham quan sinh thái – tâm linh gồm các hạng mục chính như: quảng trường trung tâm, vườn ngũ hành, đồi vô cực – hệ thống 10 bức tượng tái hiện hành trình cuộc đời Phật hoàng, tuyến cáp treo, chùa Hạ và chùa Thượng. Ngoài ra, ở phân khu này còn có một số công trình dịch vụ khác như bãi đỗ xe, hồ điều hòa, nhà hàng ven suối… NGUỒN SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH
Bắc Ninh 2137 lượt xem
Động Thiên Thai- Đền thờ Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm Động Thiên Thai cách thành phố Bắc Giang khoảng 35km về phía Tây Bắc, trước năm 1945 thuộc xã Đồng Kỳ, tổng Hương Vỹ, phủ Yên Thế, nay thuộc xã Hồng Kỳ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Đây là một khu đồn điền lớn thuộc xã Đồng Kỳ và Hồng Kỳ ngày nay. Thất diệu đồn điền được bố trí tựa như 7 ngôi sao sáng của chòm sao Bắc Đẩu, gồm bảy khu (hay bảy trại), gồm: trại nhất, trại nhì, trại ba, trại tư, trại năm, trại sáu và khu Động Thiên Thai. Thiên Thai là nơi tiên thánh ở hay cõi tiên. Kỳ Đồng đặt ra tên gọi này nhằm đánh lạc hướng bè lũ thực dân, làm chúng nhầm tưởng ông đến đây chỉ để vui thú nhàn du với ảo ảnh linh dị thần bí, nhưng thực ra Thiên Thai là trung tâm và các trại quây quần quanh vùng, đồng thời có sự liên hệ chặt chẽ với nghĩa quân Yên Thế. Bảy trại này sắp xếp dọc 2 bên đường từ Đồng Kỳ đi Đồng Vương. Từ đây tới Phồn Xương- đại bản doanh của Đề Thám chừng 4 km. Động Thiên Thai xưa vốn chỉ là khu nhà tranh nhỏ bé được Kỳ Đồng xây dựng lên. Sau đó chính nhân dân lại biến nó thành đền thờ phụng Kỳ Đồng (sau khi ông mất). Đền ngoảnh hướng Nam, nằm ở Trại Nhất phía trước có đường liên xã, kề cạnh là đường tỉnh lộ 398 và tuyến đường sắt nối ngã tư Kép (huyện Lạng Giang) với tỉnh Thái Nguyên. Phía sau đền là dòng sông Sỏi chảy dọc theo hướng Tây Nam về Bố Hạ. Đền có bố cục theo kiểu chữ đinh (J), gồm toà tiền đường 5 gian và hậu cung 2 gian. Kết cấu khung chịu lực bằng gỗ, kiểu dáng kiến trúc khung mái đơn giản kiểu kẻ truyền, trụ giá chiêng được bào trơn đóng bén, không chạm khắc hoa văn cầu kỳ, phía trước hậu đường đắp nổi ba chữ Thiên Thai động, nền đền lát gạch vuông truyền thống, mái lợp ngói mũi. Cửa đền được xây cuốn hình vòm gồm 3 cửa, cửa giữa cao và to hơn cửa hai bên, cánh cửa được đóng bằng gỗ, kiểu bức bàn. Trong đền được bài trí tượng thờ và nhiều đồ thờ tự khác. Hằng năm, vào ngày 24/2 (âm lịch), nhân dân trong vùng và cán bộ xã Hồng Kỳ lại tưng bừng mở hội, dâng hương và tổ chức các hoạt động văn hóa để tưởng nhớ đến công trạng của ông. Với ý nghĩa lịch sử như trên, động Thiên Thai là một trong 23 điểm di tích thuộc Hệ thống di tích lịch sử Những địa điểm khởi nghĩa Yên Thế được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 548/QĐ-TTg ngày 10/5/2012 xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG
Bắc Ninh 2319 lượt xem
Chùa Phúc Tằng còn còn có tên tự là Sùng Quang tự, thuộc thôn Phúc Tằng, xã Tăng Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Chùa tọa lạc trên một mảnh đất rộng gần 5000m2, ngoảnh mặt về hướng Nam ghé Tây, một hướng đẹp mang nhiều ý nghĩa tốt lành theo giáo lý nhà Phật. Đây là ngôi cổ tự được nhân dân địa phương xây dựng với quy mô bề thế mang tính chuẩn mực của nghệ thuật kiến trúc chùa tháp theo tông phái Đại thừa ở miền Bắc Việt Nam. Chùa là nơi sinh hoạt văn hóa truyền thống và tín ngưỡng của Tăng Tiến từ xưa đến nay. Di tích chùa Phúc Tằng là một công trình tín ngưỡng cổ được xây dựng từ lâu đời. Tương truyền chùa được xây dựng từ thời Lý, năm Canh Ngọ (1630). Chúa Thanh Vương Trịnh Tráng đứng đầu hưng công trùng tu chùa cổ khang trang đẹp đẽ với quy mô lớn. Các thời Lê, Nguyễn, chùa được trùng tu tôn tạo nhiều lần. Theo tấm bia đá hiện còn được lưu giữ lại tại chùa được biết, chùa Phúc Tằng được tạo dựng vào triều vua Lê Thần Tông, niên hiệu Đức Long thứ 3 (năm 1631), trong bia có đoạn viết: “Phúc Long đẳng xã có chùa Sùng Quang là nơi cổ tích danh lam, phía trước có dãy núi lớn chu tước hình thể đẹp đẽ, phía sau huyền vũ có núi xanh xanh uốn lượn. Tả thanh long dẫn dòng nước đăng khoa như dải hoa bạc bao quanh. Hữu bạch hổ dãy núi xanh như hình giá bút ngọc chầu về, ở giữa mở ra một khu đất Phật cao sáng, thiêng liêng, là nơi quốc dân thường đến cầu khẩn từ lâu rất linh thiêng ứng nghiệm…”. Với tổng diện tích gần 5000m2, kiến trúc ngôi chùa gồm: sân chùa, toà tiền đường và thượng điện. Cổng chùa xây bằng gạch. Nét độc đáo của kiến trúc chùa Phúc Tằng là được thiết kế theo kiểu chồng diêm, một kiểu kiến trúc cổ hiếm thấy. Toà tiền đường chùa Phúc Tằng được dựng gồm 5 gian 2 chái, kết cấu hai tầng theo kiểu chồng diêm, phía trước là cửa bức bàn chấn song. Hệ thống chịu lực bằng gỗ lim với 8 hàng chân cột, kết cấu kiến trúc theo lối chồng diêm, trụ giá chiêng, tiền kẻ hậu bẩy. Các cấu kiện được tạo bằng gỗ tứ thiết chắc khỏe, bào trơn, đóng bén, soi gờ, kẽ chỉ. Trên các con chồng ở vì nóc, vì nách đều chạm nổi hình hoa văn lá cúc lật, vân xoắn vân mây. Giữa các vì được liên kết với nhau bởi hệ thống xà thượng, xà trung và hạ cùng hệ thống hoành, rui mè. Trong tòa tiền đường dựng một tấm bia đặt trên mình con rồng bằng đá. Bia có niên hiệu: Hoàng triều Đức long tam niên. Thượng điện của chùa Phúc Tằng được xây sát ngay phía sau vuông góc với toà tiền đường, tạo ra bình đồ kiến trúc kiểu chuôi vồ - hình chữ đinh (J), bên trong thượng điện các đồ thờ tự và hệ thống tượng Phật được bài trí dàn trải trên các bục (bệ) được xây bằng gạch chỉ phủ vữa, quét vôi trắng và hệ thống bệ tượng làm bằng gỗ được tạo tác rất công phu… Về nghệ thuật chạm khắc của chùa Phúc Tằng được thể hiện khá rõ nét và tinh tế tại ba bức chạm trang trí ở vì kèo tại thượng điện. Bức thứ nhất được tạo tại vì giữa có chạm khắc hình tiên cưỡi rồng ẩn, hiện trong mây xen lẫn những hoạ tiết chim muông, hoa lá cách điệu. Bức chạm thứ hai trang trí bên phảI toà thượng điện, được tạo rất đẹp và tinh tế với những hình thú như: hoạ tiết hình chim và hình hoa sen cách điệu…đây là những đề tài trang trí rất sống động, thể hiện sự tinh xảo, mang tính chất đời thường. Bức chạm khắc bên trái cũng được chạm khắc rất đẹp và hoàn hảo với các đề tài trang trí: hình hổ, chim muông, dơi, cá và hoa lá cách điệu…hình cá tạo theo kiểu đề tài “lý ngư vọng nguyệt”, hổ tạo tư thế rình mồi, chim đang ấp trứng, dơi đang ngủ…Toàn bộ ba bức chạm khắc này đều là các tác phẩm nghệ thật rất độc đáo, tinh tế và mang tính thẩm mỹ cao. Trải qua thời gian, do sự tác động của điều kiện tự nhiên cùng diễn biến thăng trầm của lịch sử, chùa Phúc Tằng cũng bị mai một và tàn phá nhiều hạng mục, không còn được nguyên vẹn như xưa. Tuy nhiên, chùa vẫn còn lưu giữ được nhiều tài liệu, hiện vật quý có giá trị văn hóa, lịch sử và kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu như: 01 tấm bia đá tạo vào triều vua Lê Thần Tông, niên hiệu Đức Long thứ 3 (năm 1631), 01 tấm bia tạo vào năm Vĩnh Hựu thứ 3 (năm 1737), 03 bức chạm gỗ tinh tế và hệ thống tượng thờ, đồ thờ... Với những giá trị tiêu biểu và độc đáo về mặt kiến trúc nghệ thuật, năm 2003, chùa Phúc Tằng đã được UBND tỉnh xếp hạng là di tích Kiến trúc - nghệ thuật. Năm 2011, chùa được Bộ VH,TT&DL xếp hạng di tích cấp Quốc gia. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THỊ XÃ VIỆT YÊN TỈNH BẮC GIANG
Bắc Ninh 1637 lượt xem
Cụm di tích đình, chùa, nghè Lý Cốt, xã Phúc Sơn, huyện Tân Yên là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân 4 thôn Luông, Trám, Lý Cốt, Đài Sơn. Trong đó, đình Lý Cốt tọa lạc trên đồi cao, hướng ra xứ đồng Vắng là nơi thờ thần Cao Sơn, Quý Minh đại vương và Đức thánh Tam Giang; nghè thờ Nàng Giã đại thần (nữ tướng thời Hai Bà Trưng), các triều đại Lê - Nguyễn sắc phong cho bà là “đại thần” nên có tên ghép là Nàng Giã đại thần. Theo một số tài liệu, đình Lý Cốt được khởi dựng thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII- XVIII). Trước đây đình rất bề thế, gồm 5 gian tiền tế, 3 gian hậu cung, hai tòa dải vũ, đao cong, mái lượn, toàn bộ kiến trúc bằng gỗ lim nhưng do thời gian nên bị đổ nát, qua nhiều lần trùng tu nhân dân đã phục dựng lại vững chắc như hiện nay với 3 gian, 2 chái và 1 hậu cung, kết cấu kiến trúc kiểu chữ đinh (J), cửa thượng song hạ bản, tại đây còn lưu giữ bài vị, ngai thờ, hậu bành và một số di vật cổ thời Lê- Nguyễn. Đặc biệt, nhân dân trong vùng còn lưu truyền huyền thoại rằng: Nàng Giã tên thật là Dương Thị Giã, người làng Chuông (Nhã Nam). Vào thời Hai Bà Trưng chống quân Hán (năm 40 sau Công nguyên), Nàng Giã tập hợp lực lượng những người yêu nước trong vùng đứng lên chống giặc, gìn giữ mảnh đất quê hương. Rồi từ đây đoàn quân của bà tiến về Mê Linh nhập vào hàng ngũ của nghĩa quân Hai Bà Trưng, bà được phong làm nữ tướng và lập nhiều chiến công hiển hách. Có thời gian bà Giã cho quân về vùng núi Đót (xã Yên Lý) chờ thời cơ thuận lợi tiến công quân giặc, nghĩa quân phải nếm mật nằm gai, ăn đồ lạnh như¬ cơm nắm, cơm lam, nhân dân không ra đồng để chờ lệnh đánh giặc. Núi Đót nằm ở cực Tây Bắc của huyện Tân Yên, có độ cao 121,8 m, là điểm cao nhất trong huyện và cũng là ranh giới giữa hai tỉnh Bắc Giang, Thái Nguyên. Trong một trận quyết chiến ác liệt, vì lực lượng yếu nên bị thất thủ, dù thương tích đầy người nhưng bà vẫn một mình một ngựa phá vòng vây của giặc để về nhà, đến núi Đót bên cạnh giếng Hà (làng Lý Cốt, xã Phúc Sơn ngày nay) thì trẫm mình tuẫn tiết, khu vực này hiện vẫn còn phần mộ của bà. Để tưởng nhớ công lao Nàng Giã, nhân dân trong vùng đã lập nghè thờ và lấy ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch (ngày giỗ của bà) làm lệ làng, vào ngày này, người dân 4 thôn trên có tục “cấm lửa” và “cấm đồng” theo đó không ai ra đồng, không ai đốt lửa mà chỉ ăn cỗ nguội, cơm nắm, bánh dày tế thần nấu từ hôm trước. Dân gian có câu: Trám, Luông, Lý Cốt, Phẩm, Giàng Tháng Tư, mồng tám giỗ Nàng Giã tiên Được biết, đình làng Chuông (Nhã Nam, Tân Yên) cũng thờ Nàng Giã Đại Thần. Vì vậy, từ xa xưa Lý Cốt - Nhã Nam đã kết ước nhận nhau làm anh em, giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn, gian khó, đời nối đời con cháu đều tuân theo lệ cổ. Dân trong vùng thường nói “Đình Lý Cốt, Cột Nhã Nam” để khẳng định về sự gắn bó, đoàn kết giữa hai làng. Hội lệ đình Lý Cốt vào 14 tháng Giêng và mùng 8 tháng Tư âm lịch, ngày này sẽ tổ chức rước, tế lễ trang nghiêm, đặc biệt đồ cúng, rước phải có thịt gà đen, xôi đen, tàn lọng cũng màu đen. Vào ngày này, người dân trong vùng có tục "cấm lửa" và "cấm đồng". Bắt đầu từ ngày mồng 7, công việc chuẩn bị cho ngày giỗ Nàng Giã phải xong hết, đến ngày 8 không ai được ra đồng làm việc, không nhà nào được nấu nướng, mọi gia đình đều làm lễ thắp hương tưởng niệm. Cùng đó là các trò chơi dân gian như đấu vật, kéo co, chọi gà, cờ tướng, bịt mắt đập niêu, hát quan họ...thu hút đông đảo nhân dân trong vùng đến dự. Với những giá trị văn hóa và ý nghĩa đó, năm 2004, cụm di tích Đình, chùa, nghè Lý Cốt và phần mộ Nàng Giã được xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa cấp tỉnh. Năm 2005, đình được Nhà nước hỗ trợ kinh phí đầu tư tu sửa, tôn tạo thêm phần khang trang, tố hảo. Liên quan đến tín ngưỡng thờ Nàng Giã đại thần còn có đình làng Chuông thuộc thị trấn Nhã Nam. Truyền thuyết khác cho rằng, bà Dương Thị Giã quê ở làng Chuông, Nhã Nam nhưng đã anh dũng hy sinh ở núi Đót nên hai nơi đều dựng đình, nghè tôn thờ bà. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG
Bắc Ninh 1770 lượt xem
Yên Ninh là một làng cổ còn có tên gọi Nôm là Nếnh xưa thuộc tổng Dật Ninh, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, xứ Kinh Bắc; về sau tổng Dật Ninh được chuyển sang huyện Việt Yên, phủ Bắc Hà. Ngày nay, Yên Ninh thuộc thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên. Trong lịch sử khoa bảng Việt Nam, làng cổ Yên Ninh được cả nước biết đến là "làng Tiến sĩ". Với truyền thống hiếu học, khoa bảng vốn có, cùng ý chí quyết tâm luyện rèn kinh sử xưa tại làng Yên Ninh đã giúp cho ngôi làng lập lên một thành tích khoa cử nổi danh trong cả nước. Đó là vào khoảng thế kỷ XV- XVII, khi cả tỉnh Bắc Giang có 5 quan Tế tửu, Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám thì riêng làng Yên Ninh đã có 4 người (Thân Nhân Trung, Nguyễn Lễ Kính, Đỗ Văn Quýnh, Hoàng Công Phụ). Trong đó, người mở đầu khai khoa là Tiến sĩ Thân Nhân Trung đỗ Tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi Kỷ Sửu năm 1469. Tiếp đến là Tiến sĩ Nguyễn Lễ Kính đỗ Tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi năm 1475. Tiến sĩ Ngô Cảnh Vân đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu năm 1481. Tiến sĩ Thân Nhân Vũ (con trai Thân Nhân Trung) đỗ Tam giáp Đồng Tiến sĩ khoa Tân Sửu năm 1481. Tiến sĩ Thân Cảnh Vân (cháu Thân Nhân Trung) đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập Đệ Tam danh (Thám hoa) khoa Đinh Mùi năm 1487. Tiến sĩ Thân Nhân Tín (con trai Thân Nhân Trung) đỗ Đệ Tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất năm 1490. Tiến sĩ Đỗ Văn Quýnh đỗ Đệ Tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn năm 1520. Tiến sĩ Doãn Đại Hiệu đỗ Đệ Tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu 1541. Tiến sĩ Nguyễn Nghĩa Lập đỗ Đệ nhị Đồng giáp Tiến sĩ năm 1553. Tiến sĩ Hoàng Công Phụ đỗ Đệ Tam giáp Đồng Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi năm 1619. Công trình đền thờ Tiến sĩ tọa lạc tại thôn Yên Ninh, nơi đây xưa là cánh đồng lúa quanh năm xanh tốt, nằm giữa 2 dòng sông lớn là Nguyệt Đức (tức sông Cầu) và Nhật Đức (tức sông Thương), bên cạnh đó các ngọn núi phía Tây hình vòng cung tạo thành “Hàm Rồng phun tản vân” (tức phun châu) về phía Yên Ninh. Chính vì vậy, thôn Yên Ninh được coi là vị trí "tụ thủy" nên được người xưa khéo so sánh ví von như chiếc nghiên mực. Đó cũng là lý do để luận giải về sự hưng thịnh, vẻ vang kéo dài gần hai thế kỷ trong sự nghiệp khoa cử của làng quê Yên Ninh từ xưa đến nay. Hiện nay, đền thờ Tiến sĩ Thân Nhân Trung được xây dựng trên một thế đất phong thủy đẹp, thoáng đãng, mặt nhìn về hướng Nam, xung quanh là khu dân cư trù mật, phía sau là đình Yên Ninh và phía trước cách khoảng 500m là con đường cao tốc chạy qua. Toàn bộ khuôn viên đền rộng chừng 19.183,5m2. Nhìn tổng thể, đền có quy mô lớn bề thế, được sắp xếp bài trí trong một bố cục cân đối, hài hòa gồm các hạng mục công trình: Đền thờ, Tả vu, Hữu vu, Nhà bia, Nghi môn nội, Nghi môn ngoại. Nhìn từ xa, nghi môn ngoại, được xây theo lối kiến trúc tường thành cổ gồm 2 tầng với 3 cửa cuốn vòm cân xứng và 2 cửa phụ 2 bên. Tầng 1 liên kết với nhau bởi các cột trụ biểu, 4 cột trụ biểu chính giữa trên đỉnh đắp trang trí hình tứ phượng chung thân, phía dưới trang trí hoa văn, thân cột trụ biểu chạm khắc chữ Hán ca ngợi cảnh đẹp ngôi đền. Bốn cột trụ biểu hai bên trên đỉnh đắp trang trí hai con nghê đang trong tư thế chầu vào trong. Phần tầng 2 chính giữa nghi môn là gác lâu được mô phỏng theo kiểu kiến trúc giống Khuê Văn Các ở Văn Miếu- Quốc Tử Giám. Gác lâu được thiết kế theo lối chồng diêm, 2 tầng, 8 mái đao cong, bốn bên tường hồi gác là 4 cửa sổ tròn, biểu tượng của hình mặt trời. Qua Nghi môn ngoại là đến hồ nước được xây dựng gọn gàng, xung quanh hồ được kè chắc chắn với lan can đá tạo tác hình con tiện nối với nhau bởi các cột trụ lửng. Tiếp đến là hạng mục Nghi môn nội. Nghi môn nội tạo bởi 3 gian kết cấu theo lối chồng diêm, 2 tầng. Mái lợp ngói mũi, bờ nóc, bờ dải xây gạch, ngoài phủ vữa. Ngăn cách giữa tầng mái trên và tầng mái dưới là phần cổ diêm chấn song hình con tiện bằng gỗ. Chính giữa treo biển đề chữ Hán "Thân tướng công từ". Tường hồi hai bên trái, phải nghi môn được xây theo lối tường hồi tay ngai, tường xây gạch phủ vữa quét vôi, hai hồi phía trước, sau để thoáng. Cửa được làm theo kiểu thượng song hạ bản. Các vì liên kết theo kiểu thức vì con chồng đấu kê trụ giá chiêng. Các cấu kiện đều được làm bằng gỗ lim. Hai bên cửa nghi môn đặt hai tượng trong tư thế đứng hầu bằng chất liệu đá. Tiếp đến là hạng mục nhà bia gồm 2 nhà bia đặt 2 bên trái, phải của đền cân xứng nhau. Nhà bia tạo bởi 1 gian 4 cột gỗ chắc khoẻ nâng đỡ lấy bộ khung mái tạo sự vững chắc và thanh thoát. Giữa đặt bia đá ghi về công trạng tiến sĩ Thân Nhân Trung. Đến phần sân, chính giữa sân tạo bức bức bình phong với ý nghĩa là biểu trưng của phong thủy, là lá chắn để đảm bảo cho sự bình yên của ngôi đền. Bức bình phong được làm bằng chất liệu đá xanh, tạo tác trang trí theo hình cuốn thư. Phía trên cùng của bình phong trang trí hoa văn kỷ hà, xung quanh là hình vân mây mềm mại và phía trung tâm của bức bình phong là hình hổ ngồi chầu. Hậu cung gồm 1 gian 2 chái. Hậu cung được ngăn cách với tòa Thiêu hương bởi hệ thống cửa thượng song hạ bản, trên hệ thống cửa trang trí các đề tài tứ quý, tứ linh. Các vì liên kết với nhau theo kiểu thức con chồng, đấu kê, trụ giá chiêng. Tất cả các bức cốn, đầu dư, kẻ, bẩy... đều được trang trí bằng những mảng chạm lộng, chạm kênh bong, chạm nổi kết hợp với sự điêu luyện, tinh tế. Các đề tài trang trí rất phong phú như: tứ linh, tứ quý, kỷ hà... đường nét chạm khắc đẹp, khối hình to, tròn mập. Bên trong Hậu cung là nơi đặt tượng thờ Tiến sĩ Thân Nhân Trung, cùng bài vị của Thân Phụ và Thân Mẫu Tiến sĩ Thân Nhân Trung. Trong những năm qua, để động viên khích lệ tinh thần hiếu học, dòng họ Thân cũng như các dòng họ khoa bảng khác tại tổ dân phố Yên Ninh đã phát động phong trào đóng góp xây dựng quỹ khuyến học, hằng năm trao thưởng cho con em có nhiều thành tích cao trong học tập và rèn luyện tại đền; một số trường học trên địa bàn thị trấn cũng đến dâng hương tưởng niệm và tổ chức lễ vinh danh học sinh giỏi tại đền; một số du khách trong và ngoài tỉnh cũng đã bước đầu đến thăm quan tìm hiểu về ngôi đền và Tiến sĩ Thân Nhân Trung. Cùng với các di tích trong vùng như đền thờ Tiến sĩ, Nghè Nếnh, Đền thờ Tiến sĩ Thân Nhân Trung đã trở thành địa điểm giáo dục truyền thống văn hóa về tinh thần hiếu học cho các em học sinh trong các buổi sinh hoạt ngoại khóa giúp các em hiểu và trân quý những giá trị di sản văn hóa mà cha ông đã để lại. Với những giá trị to lớn, gắn với danh nhân tiêu biểu của quốc gia dân tộc, ngày 09/6/2022, đền thờ Tiến sĩ Thân Nhân Trung được Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang quyết định xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh (Quyết định số 1150/QĐ-UBND). NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG
Bắc Ninh 2085 lượt xem
Từ thành phố Bắc Giang theo đường quốc lộ 1A mới (Bắc Giang-Hà Nội) đến Khu công nghiệp Đình Trám khoảng 11km rẽ trái 4 km theo đường cấp phối liên thôn là đến di tích đình, chùa Bài Xanh. Thuộc thôn Bài Sanh, xã Vân Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Đường đến di tích rất thuận lợi cho quý khách đến tham quan, tìm hiểu, nghiên cứu bằng nhiều phương tiện giao thông đường bộ. Đình Bài Sanh nằm dưới sườn núi phía Tây của núi Bài (một trong những dãy núi thuộc dải Nham Biền hay núi Neo 99 ngọn). Đình ngoảnh về hướng Nam (ghé Tây) dựa lưng vào núi. Ở hai phía tả hữu, hồi chếch góc đao đằng sau là hai hồ ao nước nhỏ mà nhân dân trong thôn gọi là mắt rồng. Đình Bài Sanh được khởi dựng từ thời Lê, gồm 3 gian hai chái, do hai hiệp thợ cùng làm. Trải qua bao năm tháng, qua thiên tai địch họa đến nay đình vẫn đứng vững trên đất cũ nền xưa. Công trình kiến trúc đã phải trùng tu, sửa chữa nhiều lần vào thời Nguyễn và các giai đoạn sau này. Song vẫn bảo lưu được nhiều tài liệu hiện vật quý. Thời kỳ chống Mỹ, đình Bài Sanh còn là 1 trong những nơi chứa vũ khí của cơ quan quân đội (Bộ Quốc phòng). Các di vật bên trong không còn nhiều như những đình chùa khác, nhưng chúng cũng đủ để góp phần cho giá trị nội dung của di tích này thêm phong phú: Đó là hệ thống bia đá, câu đối, đại tự, sự tích, sắc phong và nhiều đồ thờ tự khác... Đây là một công trình tín ngưỡng văn hoá tiêu biểu của nhân dân địa phương từ xưa để lại. Là nơi thờ Thành hoàng làng là đức thánh Cao Sơn Đại Vương. Đức Cao Sơn quê ở Động Lăng Xương, huyện Thanh Châu, phủ Gia Hưng, đạo Sơn Tây. Ông là con của hai cụ Nguyễn Hành và Đẩu Thị Loan, ông sinh ra là do bố mẹ được báo mộng-người thần đầu thai. Cho nên lớn lên ông rất thông minh võ nghệ, am hiểu thiên thư. Khi đất nước có giặc ngoại xâm, vua Duệ Vương đã hạ chiếu đi khắp nơi tìm người tài giỏi, đức hiền ra giúp nước. Ông liền về triều ứng tuyển và được trọng dụng ngay, ông được Tản Viên Sơn Thanh phong làm tiền đạo thượng tướng quân. Được nhân dân địa phương hết lòng giúp đỡ- thần nhân âm phù, chẳng mấy thời gian Ngài đã làm xong, khi giặc Thục tới nơi liền bị quân tướng của Ngài đánh cho tơi tả (sau đó phải cầu hoà với nhà Hùng). Giặc Thục bình xong, ông trở lại tráng khi trước đã đóng luỹ đồn để báo đáp lòng dân. Xong xuôi ông lại được lệnh hồi triều. Rồi vua cho ông về ăn lộc ở Thanh Hoá và ở đó triều đình có sắc phong cho ông làm Thượng Đẳng Phúc thần và sức cho các nơi mà khi trước đi đánh giặc đã qua được dân trợ giúp phải lập nơi thờ phụng mãi mãi về đức thánh Cao Sơn Đại Vương. Những nét đặc sắc của đình: Giá trị cơ bản của di tích là công trình kiến trúc nghệ thuật: Nó được xây dựng sớm, cấu trúc độc đáo, nghệ thuật chạm khắc điêu luyện. Công trình kiến trúc đình Bài Sanh bao gồm hai hạng mục công trình là đại đình và hậu cung. Mái đình trên bờ nóc không còn bờ dải hoa chanh và rồng chầu mặt nguyệt. Bốn đao đình tạo dáng vẻ mềm mại, uyển chuyển cho công trình kiến trúc cổ này. Toà đại đình được kết cấu 3 gian, 2 chái. Kết cấu kiến trúc kiểu con chồng đấu kê. Ba vì giữa, ở bụng hai phía câu đầu đều có các đầu dư gánh đỡ hài hoà, hình đầu rồng bờm râu nét tua tủa, phần đuôi thò sang đầu cột đằng sau, gắn chặt hài hoà với các cốn hạ. Đình Bài Sanh là một di tích, một công trình kiến trúc cổ, nghệ thuật kiến trúc mang tính chất truyền thống sâu sắc, tiêu biểu thuộc loại hình kiến trúc nghệ thuật độc đáo. Nơi đây không chỉ là nơi phục vụ nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân mà còn là nơi để nhân dân tổ chức hội hàng năm. Từ những giá trị cơ bản đó, có thể xác định Đình Bài Sanh là một quần thể di tích kiến trúc nghệ thuật cổ, quý giá, cần được bảo tồn, phát huy giá trị bằng pháp luật của Nhà nước và sự quản lý sử dụng thường xuyên tự tạo gìn giữ, bảo quản của chính quyền và nhân dân địa phương. Năm 1995, Đình Bài Xanh được Bộ văn hoá Thông tin ra quyết định công nhận là di tích cấp Quốc gia (Quyết định số 2233 ngày 26 tháng 06 năm 1995). NGUỒN:CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THỊ XÃ VIỆT YÊN TỈNH BẮC GIANG
Bắc Ninh 1613 lượt xem
Đình Mật Ninh thờ thành hoàng của làng, em họ của Tống Thánh Tản Viên là Sơn Thánh Tản Viên, người đã đánh bại Thục Phán của Tản Thành Tản Viên viên quân. Làng Mật Ninh ngày nay gồm 3 thôn: thôn Đồng Long, thôn Kế và thôn Đình Cả, xã Quang Minh thuộc huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Khác với nhiều làng khác, làng Mật Ninh có 2 nhà công, một nhà công nhỏ gọi là nhà Mọc và một nhà công lớn gọi là nhà Cả hay nhà công Mật Ninh. Đình Mật Ninh nằm ở ven làng, thuộc xóm nhỏ Đình Cả thuộc làng Đông Long. Đường đến khu di tích văn hóa này rất thuận tiện cho việc tìm hiểu của du khách, có thể đi tàu hỏa, ô tô, xe máy, xe đạp … vì đình chỉ cách Quốc lộ 1A và đường sắt Hà Nội – Lạng Sơn khoảng 1,5 km. Làng Mật Ninh ngày nay gồm 3 thôn: thôn Đông Long, thôn Kế và thôn Đình Cả, xã Quảng Môn, huyện Nhạc, tỉnh Bắc Giang. Khác với nhiều làng khác, làng Mật Ninh có 2 ngôi đình, một nhà công nhỏ tên là đình Mọc, một nhà công lớn tên là đình Cả hay còn gọi là đình Mật Ninh. Đình Mật Ninh nằm ở ven làng, thuộc xóm nhỏ Đình Cả thuộc làng Đông Long. Đình Mật Ninh là công trình tín ngưỡng văn hóa. Tiêu biểu của dân thôn với qui mô kiến trúc đồ sộ, nghệ thuật chạm khắc đẹp, tinh tế và tỷ mỷ. Đình được khởi dựng từ thời Lê, cách ngày nay gần 4 thế kỷ. Tấm bia đá cổ hiện nay ở trong hậu cung đình “Hành Huệ lưu phúc chi bi”. Được dựng khắc năm Vĩnh Thọ thất niên (1664). Từ khi khởi dựng đến nay, trải qua trường kỳ lịch sử của quê hương và đất nước. Trải qua bao thời gian, thiên tai và chiến tranh, đình Mật Ninh vẫn đứng vững trên đất cũ nền xưa. Di tích bao gồm nhiều hạng mục công trình, đồ thờ, bia đá, sự tích sắc phong. Nhưng nay chỉ còn lại tòa đại đình và hậu cung. Đây là một công trình cổ mang nét kiến trúc từ thời Lê với lối truyền thống thượng con chồng; hạ kẻ chàng cốn nách. Nền nghệ thuật dân gian của ta vốn có lịch sử lâu đời và cội nguồn bền vững trong nhân dân. Đến nay ở đình Mật Ninh ta lại thấy nó được phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Mang theo thẩm mỹ dân gian đó- các nghệ nhân dựng và chạm khắc trang trí đình Mật Ninh. Đã thể hiện trên các chính khối, đường nét chạm trổ của mình. Bằng các đề tài quen thuộc (hoa lá, mây, nước…). Tất nhiên ở giai đoạn này đình Mật Ninh. Cũng như nhiều công trình khác đương thời vẫn không thể không chạm các hình tứ linh. Tứ quý- một biểu tượng quyền uy của giai cấp thống trị phong kiến. Kiến trúc và chạm khắc của đình mang phong cách nghệ thuật thời Lê độc đáo. Các mảng chạm khắc nghệ thuật trên cấu trúc đình và đồ thờ tự. Là yếu tố tạo nên giá trị cơ bản của di tích đình Mật Ninh. Trải qua mấy thế kỷ nhưng đình Mật Ninh. Vẫn cho các nhà nghiên cứu nghệ thuật hôm nay biết được ý nghĩa của cha ông ta từ xa xưa trên từng đường vân, thớ gỗ. Qua đó, ta lại càng thấy được sự lao động sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời của thế hệ đi trước. Đã tạo dựng nên một công trình tín ngưỡng- nghệ thuật. Giá trị tồn tại cho đến ngày hôm nay. Cổng đình được xây dựng sau, nhưng xây trát đẹp. Gồm 2 cột đồng trụ đăng đối nhau tạo thành 4 lối đi từ phía chính diện vào sân trước đình. Khiến người đi ngoài đường có thể nhìn ngắm đình được. Tòa đại đình gồm 3 gian, 2 chái, mái lợp ngói ta, 4 đầu đao cong mềm mại uyển chuyển. Trông xa xa khách tham quan hình dung. Đây như 1 chiếc thuyền úp in hình xuống mặt nước của ao hồ phía trước. Nóc đình không còn bờ dải hoa chanh mà thay vào đó là bờ đắp thẳng. Ở giữa có trang trí hình cánh phong, có 4 chữ Hán “Mật Ninh Minh Lệ”. Từ lưng chừng bờ dải nóc chéo xuống đao đình. Hiện vẫn còn các con kìm và hoa chanh trang trí. Đầu đao 2 tầng: tầng trên cong vắt lên như hình đầu phượng; tầng dưới cong vút thương đều lại có con ly chầu lên phía con kìm ở lưng chừng nóc lao xuống. NGUỒN: WPD.COM
Bắc Ninh 1702 lượt xem
Nổi bật giữa trung tâm của làng Chiền là ngôi đình. Đình tọa lạc trên một thế đất cao nhìn ra hướng Tây Nam. Phía trước đình là đường liên thôn, ba mặt xung quanh đình là khu dân cư sum vầy đông đúc. Đình thờ thần Cao Sơn – Quý Minh đại vương và Đổng Đĩnh đại vương, đây là những vị thần đã có nhiều công lao đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, được các triều đại phong kiến Việt Nam ghi nhận và phong sắc. Theo tư liệu của dòng họ Dương thôn Chiền: vào thời Hậu Lê, họ Dương ở thôn Chiền có ông Dương Quốc Chính làm quan trong triều đã có công xây dựng và tu sửa ngôi đình. Hai tấm bia đá hậu thần dựng vào năm Vĩnh Khánh (1729) hiện còn được lưu ở đây có nội dung cho biết về ghi nhớ công lao của các vị hậu thần đã có công lao với làng và các quy định của làng trong các ngày sự lệ diễn ra tại đình. Như vậy có thể khẳng định đình Chiền đã được khởi công xây dựng từ thời Hậu Lê và đã được tu sửa, tôn tạo lớn ở thời Nguyễn và các giai đoạn sau này. Trải qua năm tháng và chiến tranh ngôi đình đã từng bị thực dân Pháp phá hủy. Năm 1999, cán bộ và nhân dân làng Chiền đã bỏ tiền của, công sức, chung tay dựng lại ngôi đình. Đình Chiền được thiết kế hình chữ Đinh bao gồm tòa tiền đình ba gian hai chái nối với tòa hậu cung ba gian. Trong đình hiện còn lưu giữ được rất nhiều tài liệu, hiện vật quý như ngai thờ, bài vị, hương án, bát bửu, bia đá, hoành phi, câu đối. Đình Chiền vừa được Sở Văn hóa thể thao du lịch Bắc Giang xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Hội làng Chiền diễn ra trong ba ngày 8, 9 và mùng 10 tháng 8 âm lịch hàng năm để dân làng tưởng nhớ tới các vị thành hoàng có công với quê hương, đất nước, cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Hội làng Chiền có những tục riêng biệt mà ít nơi có, đó là tục thui trâu tế thần, tục rước cỗ về đình. Lệ làng từ xưa quy định ngày hội làng phải làm lễ thui trâu để tế thành hoàng. Ngay từ sáng sớm hôm khai hội, đại diện Ban tổ chức lễ hội của thôn đã tập trung đông đủ để làm lễ thui trâu. Trâu được chọn mua về giết, đem thui rồi mổ thịt làm cỗ tế các vị thành hoàng, sau đó chia đều cho các hộ dân để làm cỗ trong ngày hội lệ. Trâu để làm lễ phải là trâu mộng to, khỏe, béo, người dân nơi đây quan niệm như vậy mới là điều thành kính với thành hoàng, tăng thêm phần trang trọng, thiêng liêng và đem lại sự may mắn cho dân làng trong cả năm. Ngày khai hội cũng là ngày làng tổ chức lễ rước cỗ về đình. Cỗ được ba thôn Chiền, Si, Giá sửa soạn gồm có xôi, gà, thủ lợn, hoa quả…Đội rước cỗ tập trung tại một địa điểm, sau đó rước về đình lễ thánh. Đi đầu đám rước của mỗi thôn là một gia đình tiêu biểu được làng bầu chọn, suy tôn. Lệ làng ở đây quy định: gia đình được chọn để rước cỗ phải là gia đình có vợ chồng song toàn, thọ từ 75 tuổi trở lên, sống hòa thuận, chấp hành tốt chủ trương chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, hương ước của thôn làng. Đó là một vinh dự của gia đình đồng thời có ý nghĩa giáo dục lớn đối với các tầng lớp nhân dân không ngừng vun đắp hạnh phúc gia đình trọn vẹn. Thui trâu và rước cỗ là hai lệ tục độc đáo ở đây vốn có từ rất xa xưa được lưu truyền cho đến ngày nay. Hội làng Chiền được tổ chức xung quanh khu vực đình trong 3 ngày với nhiều trò chơi dân gian truyền thống như bịt mắt đập niêu, đánh cờ, chọi gà, bắt vịt… thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Những năm gần đây Ban tổ chức lễ hội của thôn Chiền cũng đã tổ chức thêm chương trình hát quan họ trên thuyền, giao lưu văn hóa văn nghệ vào buổi tối ngày bế mạc để tăng thêm phần sinh động cho lễ hội. NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH
Bắc Ninh 1799 lượt xem
Đình Lũ Phú, xưa thuộc làng A Lu, tổng Xuân Đám, huyện Phượng Nhỡn, tỉnh Bắc Giang, nay thuộc xã Xuân Phú, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Theo truyền tích được biết đình Lũ Phú được xây dựng từ lâu đời theo kiểu chữ Nhất trên mảnh đất có tên là Bãi Đồn, niên đại chính xác được khắc trên tấm bia hiện còn được bảo lưu tại đình vào thời Lê Trung Hưng, tháng 10 năm Canh Ngọ – năm 1680, ngôi đình được nhân dân đại trùng tu với dáng vẻ uy nghi, cổ kính với bình đồ kiến trúc hình chữ công, gồm 7 gian tiền tế, 3 gian ống muốn, 3 gian hậu cung, hai bên có hai dãy tả vu, hữu vu, trước cửa đình có cây đa và cây kéo cổ thụ…Ngày 21 tháng 10 năm 1953, ngôi đình bị bom Pháp tàn phá, dân xã tận dụng toàn bộ nguyên vật liệu để xây 12 gian lớp tiểu học, một nhà trạm xá 3 gian và một trụ sở Uỷ ban nhân dân xã 5 gian…như vậy có thể thấy, trước đây quy mô của đình Lũ Phú rất lớn. Năm 1991, nhân dân địa phương đại trùng tu lại ngôi đình khang trang tố hảo như hiện nay. Ngôi đình hiện tọa lạc trên một khu đất cao rộng thuộc xóm Đình Phú, trước cửa đình là ao đình, phía tả có ngôi chùa Quang Long cổ kính, xung quanh là đường liên thôn và khu dân cư bao bọc. Ngôi đình có bình đồ kiến trúc hình chữ đinh, nghệ thuật chạm khắc dân gian được in đậm trong tòa đại đình và hậu cung, đình vẫn còn bảo lưu được gần như nguyên vẹn lối kiến trúc truyền thống của một ngôi đình cổ thời Lê Trung Hưng, các mảng chạm khắc của bức cửa võng là sự thể hiện phong phú và sinh động nghệ thuật chạm khắc tinh xảo, với các mảng hoa văn khắc nổi về các đề tài tứ linh, tứ quý…Những hiện vật tiêu biểu trong đình Lũ Phú có thể kể đến tấm bia đá khắc vào tháng 10 năm 1680, 3 đạo sắc phong của vương triều Nguyễn, ngai thờ, bài vị thời Nguyễn (thế kỷ 19)… Đình Lũ Phú thờ Tướng quân Vũ Thành và Hà Công Khánh tước vị Hán quận công hàm đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân và phu nhân là bà Hoàng Quý Thị làm thành hoàng làng. Các vị thành hoàng tại đình Lũ Phú là những danh tướng tài ba, lỗi lạc có nhiều công lao trong cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập dân tộc, trấn ải miền Đông Bắc tổ quốc. Ngoài giá trị văn hóa, đình Lũ Phú còn là nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của quân và dân địa phương. Tại đình Lũ Phú, năm 1944, đồng chí Hoàng Quốc Thịnh đã từ nghè Từ Vũ lãnh đạo nhân dân tổ chức mít tinh tại đây. Tháng 4 năm 1945, nhân dân địa phương tụ họp tại đình làm lễ tế cờ cách mạng, rước đuốc, diễu hành quanh khu vực Lũ Phú thị uy biểu dương lực lượng. Tháng 6 năm 1945, bắt các Lý trưởng ra đình nộp tiền thuế, tiền bán muối, bán diêm cho Uỷ ban giải phóng. Ngày 20 tháng 7 năm 1945, đình Lũ Phú là nơi thành lập tự vệ làng Lũ Phú (còn có tên là đội tự vệ Sao Vuông) tiền thân của đội du kích xã Lũ Phú sau này. Cuối năm 1945, đồng chí Vũ Hồng Quang, đặc phái viên của Tỉnh ủy đã về đình Lũ Phú chỉ huy bắt phản động Quốc dân Đảng là Chánh Thống, người Bắc Ninh trốn về đây và tên Ký Thảo. Ngày 19 tháng 12 năm 1946, dân quân Lũ Phú tập trung trại đình xuất phát kéo lên Bắc Giang đánh Pháp… Đặc biệt, theo nội dung bản lý lịch di tích đình Lũ Phú được Hội đồng khoa học cấp tỉnh duyệt năm 2003, có ghi về sự kiện lịch sử trọng đại của nhân dân xã Xuân Phú đó là vào đầu năm 1946, nhân dân trong vùng đã tập trung tại đình Lũ Phú để bầu cử Quốc hội khóa I và bầu Hội đồng nhân dân xã lần thứ nhất. “Thắng lợi của Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khoá I đã thể hiện ý chí, quyết tâm và sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng chính quyền của nhân dân, đồng thời phản ánh sự tin tưởng sâu sắc của Đảng đối với quần chúng cách mạng”. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đình Lũ Phú là địa điểm thường xuyên hội họp để bàn kế hoạch chỉ huy tác chiến, là địa điểm tập trung luyện quân và cũng là địa điểm kết nạp Đảng viên mới, nơi tổ chức các lớp học bình dân học vụ và là địa điểm đặt trường tiểu học của xã… Đình Lũ Phú là nơi diễn ra và chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của nhân dân trong vùng và cũng là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, nơi tổ chức lễ hội truyền thống hàng năm. Lễ hội cổ truyền được tổ chức vào ngày 8 và ngày 9 tháng Giêng (Âm lịch) hàng năm. Với những giá trị trên đình Lũ Phú đã được UBND tỉnh Bắc Giang xếp hạng là di tích Lịch sử – Văn Hóa theo Quyết định số 86/QĐ-CT, ngày 30 tháng 01 năm 2004. NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH
Bắc Ninh 1793 lượt xem