Di tích lịch sử

Việt Nam

Di tích khảo cổ Dốc Chùa

Di tích khảo cổ Dốc Chùa là di tích cấp Quốc gia xếp hạng năm 2001 (Quyết Định 53/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao ngày 28/12/2001), nằm trên bờ sông Đồng Nai, trên đường liên tỉnh lộ Tân Uyên đi Lạc An, thuộc ấp Tân Hòa, xã Tân Mỹ, huyện Bắc Tân Uyên. ​Qua những đợt khai quật đã hình thành nhiều bộ sưu tập hiện vật có giá trị lịch sử và khoa học rất lớn. Các công cụ sản xuất bằng đá, gốm, đồng,… đặc biệt một bộ sưu tập gồm 76 khuôn đúc đồng và 68 công cụ vũ khí bằng đồng đã phát hiện trong di tích. Dốc Chùa trở thành một sưu tập hiện vật quan trọng biểu hiện cho một đỉnh cao phát triển của thời tiền sử vùng Đông Nam Bộ. Một di tích đa dạng và phong phú có nhiều yếu tố mới, sự hội tụ về kinh tế, kỹ thuật của xã hội phát triển cao, có niên đại từ 2500 – 3000 năm cách ngày nay. Trong đó, có Tượng Thú được công nhận Bảo vật quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Dương.

TP Hồ Chí Minh 1656 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích khảo cổ Cù Lao Rùa

​​Cù Lao Rùa thuộc phường Thạnh Hội, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Xếp hạng di tích quốc gia năm 2009 (Quyết Định số 836/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 03/3/2009). ​​Di tích có niên đại phát triển qua hai giai đoạn (sớm từ 3500 – 3000; muộn từ 3000 – 2700 năm cách ngày nay). Tổng diện tích 277 hecta, độ cao 15m so với mặt bằng khu vực. Đây là một trong những điểm khảo cổ học được phát hiện đầu tiên ở miền Đông Nam Bộ, qua các cuộc khai quật khảo cổ phát hiện Cù Lao Rùa là khu di tích cư trú - mộ táng, với nhiều công cụ bằng đá, đồ gốm và hàng ngàn mảnh gốm vỡ các loại và nhiều mộ táng. Trải qua hơn 100 năm nghiên cứu, Cù Lao Rùa đã góp phần quan trọng bảo tồn di sản văn hoá thời tiền sử và danh thắng tỉnh Bình Dương. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Dương.

TP Hồ Chí Minh 1596 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Nhà cổ Trần Công Vàng

Ngôi nhà tọa lạc tại số 21, đường Ngô Tùng Châu, phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một, trên một khu đất rộng 1.333m2, riêng phần chính (nhà trên) là 323m2, nhà phụ (nhà dưới) chiếm 119m2, được xây cất và hoàn thành vào khoảng năm 1889 – 1892. Ngôi nhà được công nhận di tích cấp Quốc gia ngày 07/01/1993. Nhà quay mặt về hướng Nam, lưng dựa vào ngọn đồi (nơi có trụ sở Ủy ban nhân dân Tỉnh bây giờ), đây cũng là cái thế đắc địa, nói theo các nhà phong thủy xưa. Xét về mặt vị trí địa lý của ngôi nhà cụ Vàng cũng như hai ngôi nhà cổ nữa của cánh họ Trần ở phường Phú Cường đều nằm gần con sông Sài Gòn, rất thuận tiện cho việc chuyên chở cây gỗ từ rừng về. Được biết, nội tổ của cụ Vàng đã từng làm nghề rừng, có trại cưa, xẻ gỗ. Công trình xây dựng theo kiến trúc kiểu chữ đinh nghịch, tức là phần nhà ngang nằm bên trái nhà trên, thay vì nằm bên phải. Đây là nhà chữ đinh có cải tiến, có bộ phận sân con ngăn cách nhà trên và dưới, liên lạc giữa hai bộ phận bằng một nhà cầu nhỏ cắt đôi sân con làm hai phần cửa của nhà dưới trổ ra nơi đầu sân con ấy mà không trổ ra ở đầu hồi, cái cửa này cũng được kiến trúc một cách đặc biệt, mới nhìn giống như một số cổng đền người Hoa, nhưng chủ nhân lại bảo phóng theo kiểu đền của Ấn Độ. Cũng như nhiều nhà khác, nhà cụ Vàng có bộ khung sườn làm theo kiểu nhà xuyên trính, nhưng có đến 8 đấm, 8 quyết ở hai chái nhà. Bộ trính, trổng, cối đều được đẻo gọt khéo léo, trính uốn xong có tạo gờ, các đoạn kèo được chạm tỉ mỉ, công phu, hàng lá dung thẳng tắp ở hàng cột thứ ba. Toàn phần nhà trên đếm được 48 cây cột tròn, tất cả đều đứng xa vách. Phần trang trí bên trong ngôi nhà là phần làm cho du khách thích thú nhất, đó là sự chạm khắc công phu, từ chân cột đến mái nhà, bàn ghế tủ ghế, trang thờ các khung cửa các ô lồng… hoành phi, liễn, đối, những bức tranh tứ bình, những tấm thủ quyển… tất cả đều chạm trổ, sơn thếp cẩn xà cừ công phu khéo léo, làm cho ngôi nhà tráng lệ mà trang nghiêm. Nhìn chung, những mô típ chạm khắc ở đây thường mang tính ước lệ, tượng trưng, trong đó thể hiện ước muốn một cuộc sống bình yên, hạnh phúc, và một nết sống nhân nghĩa, đạo đức… Những đường nét chú trọng sự uyển chuyển, mềm mại. Các hình ảnh chạm khắc gồm cây cỏ, hoa lá, chim thú, vật dụng, những đường hình học. Riêng tấm thủ quyển treo ở bàn thờ bên phải từ trong nhìn ra chạm hình Tùng Lộc, Mã Dương có kèm theo hai câu thơ chữ Hán tạo được cái vẻ thanh thoát, nhã đạm, tiêu sái. Phân bố mặt bằng của ngôi nhà,Trước hết là nhà trên, nhà có 5 gian hai chái, phần thờ phụng, tiếp khách, các buồng để ở và chứa đồ đạc của cải được ngăn chia rạch ròi. Phần thờ phụng chiếm ba gian dựa theo nguyên tắc gian bên trái thờ cha mẹ của chủ nhà, bên phải thờ ông bà, bàn thờ giữa thờ ông bà cao hơn gọi chung là gia tiên. Mỗi bàn thờ gồm tủ thờ cẩn xà cừ, bên trên là đồ ngũ sự, bên trong là bài vị hoặc chân dung người quá cố, sát vách lụa là bức thờ, trên có bài châm, câu đối, đầu bức thờ có phần Mi chạm “Lưỡng long tranh châu” và tấm thủ quyển. Hai gian hai bên là phòng ngủ của vợ chồng chủ nhân, phía sau vách thờ là dãy buồng chứa đựng đồ đạc... Trên các bàn thờ là những trang thờ có đặt các bài vị, đề quan thánh đế quân, thổ công, đông trù, tư mệnh, phước đức thánh thần, tài thần. Phần dành để tiếp khách gồm hai lòng căn (tức từ hàng cột thứ hai đến hàng cột thứ tư), nơi đây có đặt bàn ghế để tiếp khách, bao gồm ở gian giữa làm một bàn tròn lớn, mặt bàn lót đá cẩm thạch, trên bàn đặt giá Bát bửu (tám món binh khí cổ), chung quanh bàn có đặt ghế với chạm trổ tinh vi và giàu ý nghĩa tượng trưng. Hai bên bàn tròn ấy là những bàn hình chữ nhật đóng theo kiểu ghế chân nghi. Ở gian đầu là hai bàn hình hộp xoài, chung quanh đặt ghế kiểu hiện đại, tất cả các bàn ghế đều bằng gỗ. Dọc theo vách ngăn giữa phần tiếp khách và phần thờ có đặt những bàn nhỏ hình vuông bên trên có những đĩa trái cây bằng sứ, cũng nơi đây chủ nhân cho đặt một tấm Phả đồ nêu khái quát thế thứ của những người trong họ. Ở hai đầu chái nhà cũng có đặt bàn, bên trái trên bàn thờ để ảnh chủ nhân, có cặp đôi hai bên, bộ tranh tứ bình cở nhỏ, cặp câu đối và tranh tứ bình. Đặc biệt, trước của buồng ngủ đặt một cái tủ kiếng, bên trong chứa nhiều món quý như tiền cổ, nón quai thao, đồ cho cô dâu khi về nhà chồng, theo kiểu xưa… Nhà dưới là một căn nhà ngang, cất theo lối xuyên trính nhưng đơn giản hơn nhà trên. Nhà ngang dùng để tiếp khách bình thường, là nơi sinh hoạt gia đình, nhà ăn, nhà bếp,… phía trước nhà ngang là nhà xe hướng cửa ra cổng. Sân trước trồng nhiều chậu hoa kiểng, cây kiểng… tôn thêm nét đẹp cổ kính của ngôi nhà. Nhà cụ Vàng vừa mang tính nghệ thuật – nhân văn đậm nét văn hóa truyền thống Việt Nam; đồng thời, khẳng định kỹ thuật điêu khắc, chạm trổ đã có truyền thống lâu đời ở Bình Dương. Các hiện vật trang trí và đồ dùng trong nhà còn nhiều và hầu hết là cổ vật. Toàn bộ kiến trúc ngôi nhà và hiện vật bên trong, cho ta thấy được nét sinh hoạt của gia đình thuộc tầng lớp giàu có ở cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, thể hiện sự phát triển về đời sống của cư dân người Việt trên đất Bình Dương. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Dương.

TP Hồ Chí Minh 1645 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích Căn cứ Dương Minh Châu

Di tích Căn cứ Dương Minh Châu tọa lạc tại xã Phước Ninh, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh. Dương Minh Châu là tên gọi của đồng chí Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chánh tỉnh Tây Ninh đầu tiên đã hi sinh anh dũng trong trận càn của Pháp vào căn cứ Bến Cây Chò (nay thuộc ấp Gò Nổi, xã Ninh Điền, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh). Ngày 07/02/1947 để khắc ghi công ơn và tưởng nhớ đồng chí, tỉnh đã lấy tên Dương Minh Châu đặt tên cho căn cứ. Chủ trương xây dựng căn cứ, nơi đứng chân xây dựng căn cứ lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài đã được tỉnh Tây Ninh đặt ra khá sớm, từ những ngày đầu chuẩn bị khởi nghĩa Nam kỳ. Đến năm 1948 do yêu cầu của cuộc kháng chiến tỉnh quyết định chọn vùng Trà Vong làm căn cứ địa của tỉnh bao gồm khu 4, khu 6, thêm phần đất của các xã Ninh Thạnh, Hảo Đước và Hòa Hiệp. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trước tình hình nhiệm vụ mới, địa bàn căn cứ Dương Minh Châu tiếp tục mở rộng, phát triển rộng về phía Tây Bắc và phía Bắc biên giới Campuchia. Căn cứ Dương Minh Châu có vị trí địa thế được đánh giá là chiến lược quan trọng, hội tụ các tính chất của ba vùng chiến lược, trong đó vùng rừng núi chiếm vị trí đặc biệt, có thể liên hoàn ở phía sau, là một vùng rừng già rộng lớn ăn thông lên biên giới Campuchia, liên quan mật thiết với chiến khu D. Vùng rừng núi này đủ điều kiện “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa” thuận lợi cho ta xây dựng căn cứ kháng chiến và cả hệ thống căn cứ vệ tinh xa, gần, tạo thế hậu phương chiến lược, vừa thuận lợi với việc chỉ huy, chỉ đạo cuộc kháng chiến toàn miền. Căn cứ Dương Minh Châu như một cái gai đâm vào mắt kẻ thù. Địch rắp tâm “bình định”, “tiêu diệt”, còn ta quyết tâm bảo vệ, giữ vững vùng “đất thánh”, huyện căn cứ Dương Minh Châu và các vùng căn cứ liên hòan vừa là hậu phương, vừa là chiến lược nóng bỏng, giằng co giữa ta và địch trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ từ chiến tranh cục bộ, Việt Nam hóa chiến tranh. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, Căn cứ Dương Minh Châu là một trong những nơi tập kết của quân chủ lực tiến công giải phóng Sài Gòn. Trên thế tiến công thần tốc quân dân Dương Minh Châu cùng với quân dân Tây Ninh tự giải phóng mình, góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Di tích Căn cứ Dương Minh Châu đã được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia tại Quyết định số 61/1999/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao ngày 13/9/1999 của Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch). Nguồn Trang thông tin điện tử Xã Thạnh Tân, tỉnh Tây Ninh.

Tây Ninh 1965 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Căn cứ Ban an ninh Trung ương cục miền Nam

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, từ khi thành lập tháng 7/1960. Ban An ninh miền là cơ quan trực thuộc Trung ương Cục miền Nam, liên tục bám trụ và xây dựng căn cứ Ở chiến khu Bắc Tây Ninh. Qua 15 năm chiến đấu và trưởng thành với 8 lần di chuyển và xây dựng căn cứ. Cuối năm 1972, Ban An ninh về đóng tại Bảy Bàu, xã Tân Lập, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh cho đến ngày 30/4/1975. Khu di tích căn cứ Ban An ninh Trung ương cục miền Nam đã được xếp hạng là Di tích lịch sử cấp quốc gia tại Quyết định số 3777/Quyết Định -Bộ Trưởng ngày 23/12/1995 của Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch). Trong khu tôn tạo còn có 32 nhà bia của lực lượng an ninh các tỉnh miền Nam từ Quảng Trị đến Cà Mau. Mỗi địa phương một phong cách, một biểu tượng riêng, khắc hoạ hình tượng truyền thống đặc thù của mỗi vùng đất, nhưng đều tập trung và nêu bật bản anh hùng ca từ “Quân reo quê mẹ Quảng Trị anh hùng, đến Tây Nguyên bất khuất, đến Quảng Đà trung dũng kiên cường. Từ vũng Rô nối sóng đến quê hương đồng khởi Bến Tre, từ Ấp Bắc anh hùng đến Hòn Đất kiên trung, từ Rừng Sác-Nhà Bè đến Bình Long, Phước Long xây chiến thắng. Từ U Minh, Đồng Tháp đến Củ Chi đất thép thành đồng đều hội tụ về Tây Ninh, nơi căn cứ Bảy Bàu một thời kháng chiến”. Đây là khu di tích, một địa điểm du lịch khá hấp dẫn, bởi cảnh quan rừng chiến khu được bảo tồn nguyên vẹn, các hầm hào, đường đi, nhà ở được trùng tu tôn tạo kịp thời với nhiều công trình đẹp, nhất là tượng đài cao vót hoà quyện vào không gian cây rừng bao la tạo một vẻ đẹp hùng vĩ khắc hoạ bao chiến công oanh liệt của cách mạng miền Nam. Nguồn Trang thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh.

Tây Ninh 1861 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Địa điểm lưu niệm Vành Đai Diệt Mỹ Trảng Lớn

Địa điểm lưu niệm Vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn tọa lạc tại thị trấn Châu Thành, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Trảng Lớn trước đây được quân đội Mỹ chọn xây dựng, vừa là căn cứ quân sự, vừa là hậu cần cho nhiều căn cứ khác như Đồng Pan, Thiện Ngôn. Từ tháng 10/1965 đến tháng 04/1972 nơi đây là căn cứ của Sư đoàn bộ binh số 25 của Mỹ được gọi là “Tia chớp nhiệt đới”. Trước mưu đồ mở rộng chiến tranh của Mỹ, Tỉnh ủy Tây Ninh đã chủ trương thành lập ngay thế trận bao vây xung quanh căn cứ Trảng Lớn, tạo thành Vành đai diệt Mỹ khép kín. Vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn là một trong ba vành đai diệt Mỹ xuất hiện đầu tiên ở Đông Nam Bộ bao gồm 8 xã bao vây căn cứ Lữ đoàn 196 Mỹ. Ra đời, tồn tại và củng cố, phát triển, Vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn đã làm nên những trận đánh tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn là một sáng tạo, một đặc điểm chỉ có ở Trảng Lớn, đã quy tụ được lòng người, tạo được sức mạnh tổng hợp tiến công địch bằng 3 mũi giáp công, 3 vùng giáp kích, bằng ba thứ quân, tạo ra nhiều cách đánh địch: đánh tại căn cứ, kết hợp đánh lớn, đánh nhỏ, đánh liên tục, ở đâu cũng đánh, lúc nào cũng đánh, bám thắt lưng địch mà đánh, kiềm chân, căng kéo địch, buộc chúng phải co cụm lại. Vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn và nhiều nơi khác trong tỉnh Tây Ninh đã phát huy vai trò, tác dụng to lớn trong suốt những năm Mỹ đưa quân trực tiếp tham chiến ở Tây Ninh, góp phần làm rõ thêm một hiện tượng độc đáo, một hình thức đánh giặc sáng tạo, một biểu hiện rực rỡ của chiến tranh nhân dân. Đối với Tây Ninh đây còn là biểu tượng của truyền thống “Tây Ninh trung dũng kiên cường”. Với 2.250 ngày đêm chiến đấu trên Vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn (từ tháng 10/1965 đến tháng 4/1972) Đảng bộ và quân dân huyện Châu Thành đã tiến hành 3.825 trận đánh Mỹ ngụy và bình định, lập nhiều thành tích vẻ vang, góp phần cùng cả nuớc đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ. Địa điểm Vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn đã được xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia tại Quyết định số 3990/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 12/01/2013 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh.

Tây Ninh 1932 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Vườn Quốc gia Cát Tiên

Vườn Quốc gia Cát Tiên được thành lập dựa trên cơ sở sáp nhập Khu rừng cấm Nam Cát Tiên, Khu Bảo tồn thiên nhiên Tây Cát Tiên và Khu Bảo tồn tê giác Cát Lộc, nằm trên địa bàn của 3 tỉnh Bình Phước, Đồng Nai và Lâm Đồng. Diện tích khu vực trung tâm của vườn là 71.920 ha, trong đó, 39.627ha thuộc địa phận tỉnh Đồng Nai, 27.850ha thuộc địa phận tỉnh Lâm Đồng và 4.443ha thuộc địa phận tỉnh Bình Phước. Vườn Quốc gia Cát Tiên là khu vực hiện bảo tồn được nhiều loại động, thực vật quý hiếm; là vùng quan trọng để duy trì hệ sinh thái rừng thường xanh lá rộng - môi trường sống duy nhất (hiện còn) của loài tê giác một sừng ở Việt Nam, khu vực Đông Dương cũng như trên thế giới. Độ che phủ của rừng tự nhiên trong khu vực này lên tới 80%, với hệ sinh thái đa dạng: rừng thường xanh ẩm, đồng cỏ và ngập nước. Địa hình tự nhiên xen kẽ các bàu, đầm, suối, cộng với hơn 90km sông Đồng Nai đã tạo nên cảnh quan đặc trưng cho vườn Cát Tiên, với những ghềnh, thác, các khu đất ngập nước và bán ngập nước,... Những dấu tích về địa chất, địa mạo minh chứng cho quá trình biến đổi của thiên nhiên ở khu vực này hàng triệu năm trước. Hiện nay, Vườn Quốc gia Cát Tiên là một trong những khu dự trữ sinh quyển thế giới ở Việt Nam, đã được UNESCO ghi danh. Theo số liệu thống kê, trong Vườn Quốc gia Cát tiên có 1.610 loài thực vật và 1.568 loài động vật. Trong đó, 31 loài thực vật và 84 loài động vật có tên trong Sách Đỏ Việt Nam, 50 loài chim được ưu tiên bảo vệ ở mức độ toàn cầu và được ghi vào Sách Đỏ IUCN, 2008). Đặc biệt, có 3 loài và phân loài thuộc đặc hữu của Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị diệt vong là chà vá chân đen, tê giác một sừng Việt Nam và hoẵng Nam Bộ. Vườn Quốc gia Cát Tiên đã được xếp hạng di tích quốc gia năm 1997. Trong khu vực Cát Tiên có nhiều địa điểm cảnh quan đẹp, như thác Trời, thác Bến Cự, thác Dựng, thác Mỏ vẹt, thác Nơkrót - Nơkrót... Một trong số những hệ sinh thái nổi bật ở đây là hệ thống sông và các bàu. Sông Đồng Nai, có diện tích lưu vực là 40.800 km2; đoạn chảy qua Vườn Quốc gia Cát Tiên dài khoảng 90km. Suối Đắc Lua dài khoảng 20 km, gom nước từ các bàu ra sông. Bàu Sấu là bàu lớn nhất, có diện tích mặt là 92,63 ha. Trong bàu có khoảng 100 cá thể cá Sấu Xiêm. Khu vực này cũng là nơi sinh sống của loài cá lăng nổi tiếng. Bàu Cá là hồ nước tự nhiên, có diện tích mặt nước 74,3 ha. Bàu Bèo có diện tích 23,92 ha. Xung quanh bàu được bao bọc bởi nhiều cây gỗ lớn... Trong khu vực Cát Tiên còn có diện tích đồng cỏ khá rộng, nơi bảo tồn các loài thú lớn quý hiếm (bò tót, hoẵng), được bảo vệ tốt, hầu như không có tác động của con người. Về hệ thực vật của khu vực Cát Tiên: Nổi bật là rừng thường xanh lá rộng, với diện tích 17.819 ha, nơi có các loài thực vật chủ yếu thuộc họ dầu, như dầu rái, dầu lông,... cẩm lai Bà Rịa, cẩm lai, gõ, giáng hương,... và các loài gỗ lớn...; rừng thường xanh nửa rụng lá có diện tích 5.097 ha, gồm những loài cây gỗ rụng lá vào mùa khô, như bằng lăng ổi, râm,…, các loài cây gỗ lớn rụng lá và hồi lại vào mùa mưa; rừng cây gỗ xen tre nứa có diện tích 14.361 ha...; rừng tre nứa thuần loại có diện tích 29.805 ha, được hình thành dưới tác động của con người, với các loài tre Lồ Ô, mum, tre gai (la ngà); thảm thực vật ngập nước và bán ngập nước có diện tích 3.516 ha, phân bố chủ yếu ở vùng trung tâm khu vực Nam Cát Tiên. Các dấu tích khảo cổ học cho thấy, trong khu vực này đã từng tồn tại một nền văn hóa cổ. Trong lịch sử, khu vực Cát Tiên và vùng phụ cận là không gian cư trú của nhiều dân tộc thiểu số: Mạ, Chơro, S’Tiêng, Mnông, Tày, Nùng, H'mông, Dao, Hoa, Mường, Ê đê,… Các dân tộc này hiện còn bảo lưu nhiều sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, lễ hội đặc sắc, như lễ hiến tế trâu của người S’Tiêng và Mạ, lễ hội Sayangva (Mừng lúa mới) của dân tộc Chơro, lễ mừng lúa mới của dân tộc S’Tiêng và Mnông... Với những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học và thẩm mỹ đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định công nhận Vườn Quốc gia Cát Tiên là Di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 1419/Quyết Định -Thủ Tướng ngày 27/9/2012). Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa.

Lâm Đồng 2204 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt. Mở cửa

Hồ Đạ Tẻh

Nằm cách trung tâm huyện 10 km, hồ Đạ Tẻh hiện ra trong màu xanh bao trùm của rừng nhiệt đới nguyên sinh và dãy núi Con Ó hùng vĩ trập trùng. Năm 1990, hồ Đạ Tẻh được khởi công xây dựng. Buôn Con Ó của người Mạ nằm trong lòng hồ được di dời đến mảnh đất cao hơn ngay bên cạnh hồ. Con đập lớn nối 2 sườn núi đã ngăn dòng để những con nước không còn chảy miệt mài vô nghĩa mà tụ lại hợp lưu dâng lên thành hồ. Vào thời điểm đó, hồ Đạ Tẻh là công trình thủy lợi “3 nhất” của tỉnh Lâm Đồng: vốn đầu tư lớn nhất, công trình thủy lợi hoàn chỉnh nhất, mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Năm 1997, hồ Đạ Tẻh hoàn thành trở thành công trình thủy lợi lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Mặt hồ có diện tích rộng hơn 100 ha trải dài đến gần 10 km, nơi rộng nhất 400 m, chứa 24 triệu mét khối nước, được bao phủ bởi núi rừng nguyên sinh. Hồ đã mang nguồn nước phục vụ tưới tiêu cho hơn 2.300 ha đất nông nghiệp làm nên những cánh đồng xanh tươi, trù phú ở các xã Mỹ Đức, Quốc Oai, Triệu Hải, Quảng Trị và thị trấn Đạ Tẻh, từng ngày làm cho vùng quê mới trở thành miền quê đáng sống, đưa huyện Đạ Tẻh trở thành huyện nông thôn mới năm 2020 là một trong 3 huyện đầu tiên của Lâm Đồng “về đích” nông thôn mới. Trong tiếng đồng bào Mạ (chủ nhân của vùng đất này), Đạ Tẻh có nghĩa là dòng nước nóng (Đạ: nước, Tẻh: nóng). Có lẽ, một vùng lòng chảo bị bao bọc, che chắn bởi núi đồi nên khí hậu ở đây nắng nóng, khô cháy, những dòng nước chảy qua đây cũng trở nên nóng hơn những nơi khác; vì thế mà cả vùng đất nắng bụi mưa bùn có tên là Đạ Tẻh. Không còn cái nóng khắc nghiệt nữa, dòng nước mát lành từ rừng nguyên sinh làm cho nước hồ ăm ắp quanh năm, vừa tưới tiêu cho mùa màng, vừa cung cấp nước sinh hoạt cho Nhân dân trong huyện, hồ Đạ Tẻh còn góp phần cải tạo, làm thay đổi hệ sinh thái và cảnh quan môi trường tự nhiên, điều hòa môi sinh, tỏa luồng hơi nước mát lành làm cho khí hậu dịu đi, giảm độ nóng cho cả một vùng lòng chảo. Năm 2004, hồ được công nhận là Di tích danh lam thắng cảnh cấp quốc gia. Nguồn Trang thông tin điện tử huyện Đạ Tẻh, tỉnh Lâm Đồng.

Lâm Đồng 1978 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Thác Voi (Thác Liêng Rơwoa)

Thác Liêng Rơwoa hay còn gọi là Thác Voi nằm ở thị trấn Nam Ban, huyện Lâm Hà, cách thành phố Đà Lạt 25km về hướng tây nam. Thác Voi là một trong những thác nước đẹp của Tây Nguyên hùng vĩ với chiều cao hơn 30m, rộng chừng 15m. Các già làng K'ho cư trú lâu đời ở miền đất này kể rằng: Ngày xưa, vị tù trưởng của vùng núi Jơi Biêng có cô con gái rất đẹp. Mỗi khi sơn nữ cất giọng hát thì lá rừng thôi xào xạc, đàn chim ngừng tiếng hót để lắng nghe. Người yêu của nàng là con trai của tù trưởng làng bên. Chàng được nhiều người yêu mến, quý trọng không chỉ bởi vóc dáng vạm vỡ, khuôn mặt khôi ngô mà còn vì sự gan góc, dũng cảm ít ai sánh kịp. Họ đã trao lời hẹn ước nên duyên chồng vợ song chàng trai phải lên đường giết giặc và rồi nhiều mùa trăng trôi qua mà chẳng thấy quay về. Cô gái đau khổ tìm đến ngọn núi hoang vắng mà trước kia họ từng hò hẹn, cất tiếng hát tha thiết, sầu thảm với hy vọng người trong mộng tìm về chốn xưa. Tiếng hát khiến loài chim B'ling xúc động. Chúng rủ nhau bay đi thật xa để dò la tin tức rồi về báo cho nàng biết là chàng trai đã hy sinh ngoài chiến trường. Thế nhưng, sơn nữ vẫn không chịu chấp nhận sự thật phũ phàng đó. Nàng cứ hát, hát mãi cho đến khi kiệt sức, ngã quỵ và không bao giờ gượng dậy được nữa. Đàn voi phủ phục nghe nàng hát bấy lâu nay cũng hóa đá lặng câm. Bỗng có tiếng nổ lớn, trời đất rung chuyển khiến ngọn núi gãy ngang và một dòng thác đột ngột tuôn chảy, tung bọt trắng xóa. Tiếng thác nước rì rầm hòa cùng tiếng xào xạc của rừng cây, tiếng líu lo chim hót như tiếp nối lời ca, tiếng đàn của sơn nữ xinh đẹp, thủy chung. Người K'ho bèn đặt tên cho thác là Liêng Rơwoa Jơi Biêng - thác của những con voi phủ phục hóa đá trước tình yêu nồng nàn, son sắt. Sẽ thật đáng tiếc khi đến Đà Lạt - Lâm Đồng mà không tới Liêng Rơwoa (thác Voi) kỳ bí, thơ mộng. Thác nước gắn liền với sự tích về mối tình thủy chung, bi tráng này đã được công nhận là di tích thắng cảnh quốc gia. Dòng nước trong veo tuôn chảy qua sườn núi đá hoa cương trông thật ngoạn mục, nhất là khi ánh nắng rực rỡ chiếu rọi xuống thác làm bừng lên cầu vồng bảy sắc. Muốn xuống chân thác, du khách phải "chinh phục" 145 bậc tam cấp vòng vèo: khi là những bậc đá thiên tạo "ăn" vào vách núi cheo leo, lúc là các tấm ván của chiếc cầu gỗ xinh xinh chênh vênh bên bờ vực thẳm. Ngút tầm mắt là rừng đại ngàn với những cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi, thân và cành chằng chịt dây leo. Giữa mênh mang, lớp lớp cây rừng mầu xanh ngắt hoặc điểm xuyết những chòm lá đỏ rực như lửa, những thảm hoa màu vàng tươi hoặc tím biếc đẹp đến lạ lùng. Dưới chân thác và trong cánh rừng già xuất hiện một số tảng đá lớn có hình thù hệt như những con voi. Thế nên, tiếng thác đổ ầm ào khiến người thưởng ngoạn tưởng như có một đàn voi chạy đua hoặc tung vòi phun nước đùa nghịch với nhau. Phía sau dòng thác trắng xóa đang tung bụi nước mù mịt là những hang động sâu hun hút đầy bí ẩn. Đó là hang Dơi ăn sâu xuống lòng đất đến 50m với những vách đá có các hình thù, mầu sắc rất lạ mắt. Rễ cây và dây leo đan xen chằng chịt, càng xuống sâu, hang càng tối nhờ nhờ và lạnh lẽo như động của phù thủy. Đó là hang Gió với lối vào rất hẹp nhưng bên trong khá rộng, vi vút tiếng sáo gió trời. Bên cạnh vẻ đẹp quyến rũ, thơ mộng, thác Voi từng là cứ địa cách mạng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp - Mỹ. Mới được tôn tạo thành điểm tham quan du lịch trong những năm gần đây. Năm 2001 thác Voi đã được công nhận là di tích - thắng cảnh quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Lâm Đồng.

Lâm Đồng 1917 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Hồ Đa Thiện – Thung lũng Tình yêu

Thung lũng Tình Yêu là một trong những thắng cảnh thơ mộng nhất tại Đà Lạt, cách trung tâm thành phố khoảng 5 km về phía bắc, thung lũng Tình Yêu có địa chỉ tại số 7 Mai Anh Đào, phường 8, thành phố Đà Lạt. Đó là nơi đập Đa Thiện quy tụ những dòng suối nhỏ chảy từ đồi núi cao, thành hồ Đa Thiện trong vắt uốn quanh thung lũng rợp bóng thông xanh. Vào những năm 1930, toàn quyền Đông Dương và các cặp tình nhân người Pháp thường chọn khung cảnh này cho những buổi hẹn hò, rồi đặt tên là Valleé d'Amour. Đến thời vua Bảo Đại, vùng này được gọi là Thung lũng Hòa Bình. Năm 1953, ông Nguyễn Vỹ - Chủ tịch Hội đồng thị xã Đà Lạt lúc bấy giờ - đã đề xuất đổi tên thành Thung lũng Tình Yêu. Thung lũng Tình Yêu đẹp và cuốn hút bởi thung lũng sâu và đồi thông quanh năm xanh biếc. Năm 1972, một đập ngăn nước được xây dựng vắt ngang qua thung lũng tạo thành hồ Đa Thiện, làm tăng thêm sức quyến rũ cho cảnh quan chung, đồng thời xuất hiện thêm hai tên gọi khác bên cạnh Thung lũng Tình Yêu là đập 3 và hồ Đa Thiện 3. Du khách có thể men theo những lối mòn hoặc leo cả trăm bậc, đi qua những cổng hoa với màu sắc rực rỡ để lên đồi Vọng Cảnh. Từ đây, Thung lũng Tình Yêu hiện ra trong tầm mắt đẹp tựa một bức tranh sinh động. Năm 1998, Bộ Văn hóa Thông tin đã công nhận hồ Đa Thiện – Thung lũng Tình yêu là di tích thắng cảnh cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.

Lâm Đồng 1908 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa