Khu di tích lịch sử Hoàng Hoa Thám thuộc thị trấn Phồn Xương, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Nơi đây gắn liền với chiến công vang dội của người anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám - vị thủ lĩnh áo nâu - đã cùng nhân dân Yên Thế dựng cờ khởi nghĩa chống lại thực dân Pháp ngót 30 năm (1884 - 1913). Đây là phong trào khởi nghĩa nông dân lớn nhất, dài nhất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam ta trước khi có Đảng lãnh đạo. Khu di tích lịch sử văn hoá về cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế đã tạo thành một quần thể di tích lịch sử có giá trị to lớn. Với 23 điểm di tích, hầu hết là những đồn lũy, đình, đền, chùa, miếu trải rộng trên địa bàn 4 huyện (Yên Thế, Tân Yên, Việt Yên và Yên Dũng). Khu di tích khởi nghĩa Yên Thế là bằng chứng thuyết phục cho tinh thần quả cảm, bất chấp hy sinh của nghĩa quân Đề Thám nhằm giành lại độc lập, tự do. Để ghi nhận, tôn vinh những giá trị và ý nghĩa đặc biệt đó, ngày 10/5/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 548/QĐ-TTg xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt đối với khu di tích này, trong đó huyện Yên Thế có 9 điểm gồm: đồn Phồn Xương, đồn Hố Chuối, chùa Lèo, đình Dĩnh Thép, chùa Thông, đồn Hom, động Thiên Thai, đền Cầu Khoai và Đền Thề. Trong đó, trung tâm của cuộc khởi nghĩa là Khu di tích lịch sử Hoàng Hoa Thám thuộc thị trấn Phồn Xương, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. 1. Đền Thề Phía trước chúng ta là Đền Thề. Ngôi đền được xây dựng vào cuối thế kỷ 19 bằng tranh, tre, nứa, lá. Năm 1897, khi cuộc hòa hoãn lần thứ 2 giữa thực dân Pháp và nghĩa quân Yên Thế diễn ra tại đây, Đề Thám đã cho tu sửa lại ngôi đền có kiến trúc bằng gỗ lim như chúng ta thấy ngày nay. Kiến trúc này đến nay may mắn vẫn còn giữ nguyên vẹn. Sau khi sửa sang lại, Đề Thám thường dùng nơi này mở hội nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho người dân. Đặc biệt, nơi đây ông thường làm nơi quy nạp nghĩa quân, chiêu mộ nhân tài. Trước mỗi trận đánh, ông thường cho nghĩa quân tập trung uống rượu cắt máu ăn thề tại đây. Tháng 5/2012, thủ tướng chính phủ ký quyết định công nhận 23 điểm di tích của cuộc khởi nghĩa Yên Thế là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt và ngôi đền Thề là 1 trong 23 điểm di tích lịch sử quốc gia đặc biệt đó. 2. Tượng đài Hoàng Hoa Thám Nằm ngay sau ngôi đền Thề là tượng đài người anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám. Tượng lúc đầu được làm bằng bê tông, sau chuyển sang chất liệu đồng vào năm 2013 do tác giả Anh Vũ – Hội viên Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bắc Giang sáng tác năm 1984. Tượng cao 5,07m, diện tích bề mặt 31m2, dày bình quân 2,0cm; bệ tượng có kích thước 2,1x2,1m, cao 0,32m, diện tích bề mặt 7m2, độ dày bình quân 2,5cm. Tượng có trọng lượng trên 7 tấn đồng nguyên khối, với trị giá trên 4 tỉ đồng, và hầu hết số tiền làm tượng là do xã hội hóa. 3. Nhà trưng bày khởi nghĩa Yên Thế Hạng mục tiếp theo trong khu di tích mà bất kể du khách nào đến đây không thể không ghé qua đó là Nhà trưng bày khởi nghĩa Yên Thế. Nhà trưng bày được xây dựng năm 1984, lúc đầu có kiến trúc là 1 tầng. Sau này được xây dựng và tu sửa lại và có kiến trúc 2 tầng như ngày nay. Tầng 1 trưng bày một góc dân tộc học huyện Yên Thế. Tầng 2 trưng bày những hình ảnh, hiện vật của cuộc khởi nghĩa Yên Thế, cuộc khởi nghĩa tự phát của nông dân tiêu biểu nhất, quy mô nhất và kéo dài nhất của dân tộc ta vào cuối thế kỉ 19 đầu thế kỷ 20 trước khi có Đảng CSVN ra đời. 4. Đồn Phồn Xương Đồn Phồn Xương còn có tên gọi là Đồn Gồ, Đồn Cụ, được xây dựng năm 1894, trấn giữ con đường độc đạo đi vào căn cứ nghĩa quân. Đây chính là đại bản doanh chính của nghĩa quân Yên Thế, là thủ phủ của cuộc khởi nghĩa, nơi bắt đầu để mở mang phong trào ra các địa phương. Đề Thám cho xây dựng Đồn Phồn Xương vừa là nơi ăn ở, sinh hoạt của gia đình Đề Thám cũng như của nghĩa quân, đồng thời đây cũng là nơi gặp gỡ, đàm đạo giữa Đề Thám và các anh hùng đương thời để bàn việc đánh giặc cứu nước (như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên, Kỳ Đồng…). Đặc biệt, đây là nơi diễn ra cuộc hòa hoãn lần thứ 2 giữa nghĩa quân Yên Thế và giặc Pháp. Sau khi cuộc khởi nghĩa kết thúc, người dân Yên Thế đã xây dựng đền Bà Ba - vợ ba Hoàng Hoa Thám trong đồn Phồn Xương nhằm tưởng nhớ công lao to lớn của Bà trong cuộc khởi nghĩa. 5. Lễ hội Yên Thế Lễ hội Yên Thế được tổ chức vào ngày 15, 16,17 tháng 3 dương lịch hàng năm. Đây là một trong những lễ hội lớn nhất của tỉnh Bắc Giang. Lễ hội là dịp để nhân dân bày tỏ lòng tôn kính cũng như tưởng nhớ công ơn Hoàng Hoa Thám, vị tướng tài năng, người thủ lĩnh tối cao của phong trào nông dân Yên Thế và nghĩa quân đã chiến đấu chống thực dân Pháp. Năm 2013 lễ hội Yên Thế đã được Nhà nước công nhận là di sản văn hoá phi vật thể quốc gia. NGUỒN : Trung tâm thông tin & xúc tiến du lịch Bắc Giang
Bắc Ninh 2517 lượt xem
Lăng Dinh Hương xây dựng từ năm 1727 ( thế kỷ thứ XVIII) trong lăng lưu giữ thi hài Quận công La Quý Hầu. Ông sinh năm 1688 ở tại địa phương. Năm 1730 triều đại Lê Duy Phường ông được cử làm dịch quân thị hầu, thị đội, rồi làm thái giám. Dưới triều đại Lê Y Tông ông được cử hai lần đi sứ phương Bắc vào năm 1735 và 1739. Sang năm 1740 triều đại Lê Hiển Tông, ông cầm quân đi dẹp loạn ở các vùng thuộc đạo Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Dương. Ông mất mùng 9 tháng 6 năm Kỷ Tỵ (1749), thọ 61 tuổi. Năm 1754 vua phong ông là Phúc thần trung cẩn đại vương. Đặc biệt lăng được chính Quận công xây dựng tại quê nhà khi còn sống. Lăng Dinh Hương tọa lạc trên một quả đồi hình tròn, rộng khoảng một ha, có tường đá ong (vừa được đầu tư tôn tạo) bao quanh. Bố cục mặt bằng kiến trúc khu lăng gồm ba phần chính: Phần mộ táng ở giữa, phần thờ tự ở bên trái, phần bia ở bên phải. Khu lăng mộ bằng đá khoảng 100 mét vuông xây đá ong hình vuông, phía trước khu mộ có hai quan hầu dắt ngựa đứng chầu đối diện nhau. Cặp tượng quan hầu dắt ngựa được xem là những kiệt tác của nghệ thuật chạm khắc đá. Võ quan đeo gươm dắt ngựa phía bên phải có mặt to, hàm rộng. Võ quan đeo gươm dắt ngựa phía bên trái có râu dài, mặt nhỏ. Toàn bộ hình khối tượng được chạm khắc công phu làm toát lên vẻ đạo mạo, phi phàm. Đến với Lăng Dinh Hương du khách sẽ được chiêm ngưỡng khu thờ tự cũng được xây vuông như phần mộ táng, tường vây bằng đá ong, phía trước xây bậc tam cấp, trên đặt sập đá, ngai thờ, hai bên có tượng hầu bê tráp và đôi nghê nằm phủ phục. Bên dưới ngai thờ là nhang án, bàn đá, đôi nghê ngồi chầu đầu vào nhau qua đường thần đạo. Xa xa là đôi voi quỳ phủ phục chầu về. Phía bên phải khu mộ là nhà bia chỗ 4 cửa cuốn vòm, trong đặt bia đá ghi công trạng người được thờ. Dòng lạc khoản khắc ghi cho biết bia được tạo vào năm 1729. Nhìn tổng quan, chất liệu tạo dựng công trình kiến trúc nghệ thuật lăng Dinh Hương chủ yếu bằng đá xanh, được đục đẽo, tỉa tinh xảo với các hoạ tiết mây lửa, cụm xoắn ốc nổi cao, các dải hoa văn kỷ hà lồng móc vào nhau đăng đối. Độc đáo hơn cả ở công trình kiến trúc này là nghệ thuật chạm khắc tượng tròn theo lối tả thực với khuynh hướng tự nhiên hoá. Tượng người và thú vật tại lăng làm bằng đá xanh, được chạm khắc rất sống động. Tượng có kích thước lớn, hình khối mập, chắc và được tỉa công phu. Có thể nói đây là một công trình kiến trúc đồ sộ, được chạm khắc đá công phu với tài nghệ điêu luyện. Quần thể lăng mộ là công trình điêu khắc nghệ thuật đá tiêu biểu hạng nhất ở tỉnh Bắc Giang. Các cổ vật trong lăng được giữ gìn tương đối nguyên Du khách về thăm Lăng Dinh Hương sẽ bị cuốn hút bởi nghệ thuật điêu khắc đá của các nghệ nhân xưa. Điểm nổi bật, độc đáo của lăng Dinh Hương là các bức tượng đồ sộ, to hơn hẳn ở các lăng mộ khác, được chạm khắc tinh tế. Theo thống kê, ở Bắc Giang đã phát hiện và công nhận 46 công trình kiến trúc đá cổ, chủ yếu là lăng đá. Hệ thống lăng đá là minh chứng của một nền nghệ thuật điêu khắc lăng mộ phát triển đến đỉnh cao và giữ vị trí quan trọng trong nền kiến trúc, điêu khắc đá cổ trong các lăng tẩm Việt Nam. Đây thực sự là những tinh hoa của nghệ thuật điêu khắc cổ, với những nét tinh xảo được thể hiện trong từng đường nét trên các bức tượng. Những hiện vật, tượng đá cũng góp phần tăng thêm giá trị lịch sử, giá trị văn hoá nghệ thuật của các lăng đá cổ. Lăng đá Dinh Hương là nơi tôn vinh truyền thống kiến trúc điêu khắc đá của dân tộc, thể hiện rõ ở nghệ thuật điêu khắc tượng người hay linh thú cùng đồ thờ, cũng như trang trí kiến trúc phong phú, đồ án hoa văn sinh động thực sự điển hình cho nghệ thuật điêu khắc đá cổ Việt Nam. Với những giá trị về lịch sử văn hoá và nghệ thuật kiến trúc tiêu biểu, lăng Dinh Hương đã và đang hấp dẫn du khách tới tham quan. NGUỒN DU LỊCH BẮC GIANG
Bắc Ninh 2048 lượt xem
Đình Phù Lão ở làng Phù Lão, xã Đào Mỹ, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Mặc dù qua bao năm tháng chiến tranh giặc giã, nắng mưa tàn phá, sự xuống cấp bởi thời gian qua nhiều lần tu bổ, đình Phù Lão vẫn giữ nguyên được cho mình những nét cơ bản của ngôi đình cổ Việt Nam, nhất là về mảng kiến trúc nghệ thuật. Đình Phù Lão được khởi dựng vào năm 1688, thời Vua Lê Chính Hòa thứ 15. Đình Phù Lão được xây dựng trên khuôn viên rộng hơn 1.500m2 ở ngay đầu làng, nhìn về phía Đông Nam thờ Đức Cao Sơn - Quý Minh là các danh tướng thời Hùng Vương có công dẹp giặc giữ nước, đây là các danh tướng được nhiều nơi ở khu vực phía Đông Bắc Bắc Bộ lập đền thờ tôn vinh người có công với làng với nước. Các ngài được nhiều triều đại sắc phong thượng đẳng thần, được xếp vào bậc Phúc thần trừ gian, diệt ác bảo vệ cho dân lành. Đồng thời đình còn thờ Đào tướng công và Quý Thị phu nhân là người địa phương đỗ đạt làm quan, bỏ tiền cung tiến xây đình công đức cho làng. Đình Phù Lão tọa lạc trên một dải đất cao, thoáng, đẹp ở phía đầu làng, lưng đình xây ra phía ngoài, mặt đình quay về phía xóm làng, ẩn mình dưới bóng đa xanh mát, soi mình xuống bến nước trong veo. Trước cửa đình có một ao rộng hình nửa bầu dục, sân đình rộng, bằng phẳng. Nhà tiền tế mới được xây dựng gồm ba gian nhỏ, phía sân sau tiền tế có một tấm bia bốn mặt, dựng năm Chính Hòa thứ 15 (1694), do tiến sĩ họ Hoàng soạn, nói về công lao đóng góp xây đình của bà Đào Thị Hiền. Đình có bốn tàu mái cao, rộng, mái được lợp bằng ngói mũi bài. Tòa đại đình gồm bảy gian, dài 23m, rộng 12m, với 8 vì kèo 6 hàng cột, 48 cột. Các vì kèo kết cấu theo lối chồng rường giá chiêng, kết hợp kẻ moi ở bốn góc. Bốn cột giữa có bốn bức cốn chạy dài gần cả gian tạo nên bốn mảng trang trí lớn. Bốn mặt đình còn dấu vết lát ván và có cửa bức bàn bao quanh; các gian đều có sàn. Trừ cột, rui và hoành, các cấu kiện kiến trúc gỗ khác như đầu dư, cốn, ván nong, kẻ, đấu trụ... đều được chạm trổ nhiều hình phản ánh các mặt sinh hoạt làng xã. Với những giá trị kiến trúc - nghệ thuật điêu khắc gỗ độc đáo riêng có ấy, từ năm 1982 đình Phù Lão được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử được xếp hạng cấp quốc gia, sau 2 lần được trùng tu chống xuống cấp, mới đây nhất là năm 2011, đến nay nhà nước, các cấp uỷ, chính quyền, tổ chức xã hội, đặc biệt là tín đồ phật tử khắp nơi đã công đức xây dựng di tích ngày thêm tố hảo, nhằm lưu giữ các giá trị văn hoá đặc sắc của cha ông cho con cháu muôn đời sau. NGUỒN Tạp chí điện tử Thế giới Di sản
Bắc Ninh 1674 lượt xem
Di tích Nghè trận tọa lạc trên một gò đồi, cách trung tâm thị trấn Kép ( huyện Lạng Giang) khoảng 1,2 km về phía Đông Nam. Cách trung tâm TP. Bắc Giang khoảng 20 km về phía Đông Bắc. Với tổng diện tích là 1.143,2 m2, Nghè Trận là công trình di tích lịch sử văn hóa của nhân dân và địa phương Làng Kép, xã Cần Dinh, tổng Cần Dinh, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang, xứ Kinh Bắc. Nay thuộc thôn Kép 11, Kép 12, xã Hương Sơn, huyện Lạng Giang. Hiện nay Nghè Trận có bình đồ kiến trúc kiểu chữ đinh với 03 gian tiền tế nối liền 02 gian hậu cung. Cụ Nguyễn Quang Thổ, 84 tuổi, ở thôn Kép 11, xã Hương Sơn - Trưởng Tiểu Ban quản lý di tích lịch sử văn hóa Nghè Trận cho biết, theo tương truyền xưa, Nghè Trận thờ tướng hai bà Trưng. Khi trận đánh Cần Trạm diễn ra ác liệt, rất nhiều nghĩa quân, tướng sĩ đã tử trận tại khu vực này, nhân dân lập ban thờ các vong linh các nghĩa quân, tướng sĩ từ đó có tên gọi “ Nghè Trận”. Hiện nay, các di vật, hiện vật còn lại được bảo tồn trong di tích như: kiệu thánh thời Lê ( thế kỷ 18); bát hương gốm Phù Lãng ( thế kỷ 19); 02 pho tượng cổ thời Nguyễn ( thế kỷ 20). Các vật dụng ngai thờ, tượng thờ, bát hương, chuông đồng, lọ hoa và các đồ thờ tự khác chứng minh cho thấy Nghè trận được xây dựng hình thành từ thế kỷ 18. Nằm trong quần thể di tích thành Cần Trạm ( thị trấn Kép, huyện Lạng Giang) gắn liền với cuộc kháng chiến chống quân Minh của nhân dân ta ở đầu thế kỷ 15. Nghè Trận là công trình lịch sử văn hóa, tín ngưỡng cổ, lâu đời ( thế kỷ 18) có ý nghĩa lịch sử văn hóa quan trọng đối với nhân dân và địa phương trong vùng. Trong kháng chiến chống thực dân pháp giai đoạn năm 1946-1947, giặc Pháp bắn phá khu vực làng Kép, Nghè Trận cũng bị tàn phá hư hỏng, nhân dân địa phương nhiều lần góp của, góp công tu sửa và tôn tạo. Công trình trải qua thời gian sử dụng nhiều thế kỷ bị xuống cấp, nhân dân và Chính quyền địa phương các cấp nhiều lần đóng góp công sức, tiền của đầu tư tôn tạo và sửa chữa. Các mốc thời điểm chính vào năm 1991, 2006, đầu tư sửa một số hạng mục và dựng lại 02 gian Tòa hậu cung, năm 2019, xây dựng mới 03 gian Tòa tiền tế to đẹp, khang trang. Năm 2009, Nghè Trận được UBND tỉnh Bắc Giang Quyết định xếp hạng công nhận Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh ( Quyết định số 1587/QĐ-UBND ngày 17/9/2009). Góp phần nâng cao ý nghĩa, giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống của nhân dân trong vùng và phục vụ du khách tới nghiên cứu, tham quan du lịch ngày một phát triển. NGUỒN Trung tâm thông tin & xúc tiến du lịch Bắc Giang
Bắc Ninh 2019 lượt xem
Khu ATK Hoàng Vân thuộc huyện Hiệp hòa tỉnh Bắc Giang, cách thành phố Bắc Giang 35km về phía Tây. Đây là một trong những cơ sở cách mạng trung kiên, nơi hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng trước cách mạng tháng 8 năm 1945, là nơi diễn ra hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ của Trung ương Đảng vào tháng 4/1945 do đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang cách mạng giành chính quyền tháng 8/1945. Tại đây bạn sẽ được giới thiệu tổng quan về cơ sở cách mạng thời kỳ tiền khởi nghĩa của Đảng, thăm một số di tích lịch sử cách mạng của ATK: nơi mở lớp huấn luyện chính trị cách mạng của Đảng thời kỳ tiền khởi nghĩa, nơi diễn ra Hội nghị quân sự cách mạng của Trung ương Đảng, thăm Đình Vân Xuyên ở “xóm Đỏ”, nơi gắn với nhiều sự kiện cách mạng ở địa phương, thăm đền và núi Y Sơn thuộc xã Hoà Sơn, tham quan và nghe giới thiệu về lịch sử, kiến trúc, các di vật quý của đền, thắp hương cầu may, cầu lộc, cầu tài tại Đền. NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH
Bắc Ninh 1869 lượt xem
Văn chỉ làng Thổ Hà được xây dựng vào thế kỷ XVII (theo tấm bia còn lưu giữ thì được xây dựng vào năm Vĩnh Thịnh thứ 5, năm 1680) thờ Khổng Tử, Tứ Phối, 72 vị tiên hiền…, nơi đây được coi là cái nôi của nền học thức Thổ Hà. Đây cũng là địa điểm thu hút khá đông du khách đến tham quan, nhất là vào mùa thi cử, các sĩ tử đều đến đây thắp hương, lễ bái với tấm lòng thành kính. Đặc biệt, làng Thổ Hà không có ruộng, chỉ có đất thổ cư với diện tích 20ha, dân số gần 3.800 người. Với điều kiện tự nhiên, xã hội như thế nên ngay từ thuở lập làng người dân ở đây đã chọn cho mình một nghề thích hợp để khai thác được nhiều lợi thế. Nghề được chọn chính là nghề gốm. Chính nghề gốm đã làm nên một Thổ Hà sầm uất và danh tiếng. Làng là trung tâm gốm quan trọng nhất của đồng bằng Bắc Bộ trong suốt mấy trăm năm, bên cạnh Phù Lãng và Bát Tràng. Gốm Thổ Hà xưa không dùng men, cái thứ đất dẻo kỳ diệu ấy được nung cho đến tự chảy men ra, bám trên bề mặt đồ gốm một màu nâu óng, mượt như nhung, mát lịm. Làng chỉ làm đồ gốm gia dụng, những chum vại, tiểu sành, chĩnh chõ nổi tiếng một thời. Bề mặt đồ gốm tím sẫm, đanh lại, gõ kêu như đánh vào thép nguội. Những mảnh gốm xưa còn sót lại trên các bức tường vẫn nguyên hình vẹn trạng, chính thế mà hồn gốm như còn đọng mãi. Cùng với nghề gốm, nghề tráng bánh đa nem, tráng mỳ, bánh đa và cả nấu rượu, làm bánh kẹo, dịch vụ cũng đã phát triển ở Thổ Hà nên làng thường được gọi là "làng đa nghề". Các nghề này đã tạo nên một diện mạo mới cho làng, qua đó mới thấy sức lao động cần cù, sáng tạo không bờ bến của nhân dân nơi đây. Là một làng nghề truyền thống trù phú trong suốt mấy trăm năm nên nơi đây cũng có sự giao thoa nhiều nét văn hoá đặc sắc của các vùng miền trong cả nước. Trong đó, đặc sắc nhất là các lễ hội với nhiều hoạt động văn hoá truyền thống như: hát tuồng cổ, hát quan họ, chơi cờ tướng, chọi gà, bóng bàn… Vẻ đẹp cổ kính với những khu kiến trúc cổ, làng cổ, văn hoá đặc sắc cùng với những nghề truyền thống in đậm hồn quê Thổ Hà đã và đang là một địa chỉ quen thuộc và hấp dẫn du khách trong và ngoài nước đến tham quan NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH BẮC GIANG
Bắc Ninh 1627 lượt xem
Đình Lỗ Hạnh Đình Lỗ Hạnh là ngôi đình chung của 5 làng: Chằm, Chúng, Khoát, Chùa và Hạnh, nên còn có tên gọi là đình Cả. Đình được xây dựng vào năm Sùng Khang thứ 11 (1576), thờ Cao Sơn Đại Vương và Phương Dung Tiên Chúa - 2 vị thần có công với nước, với dân thời vua Hùng. Đình Lỗ Hạnh mang giá trị văn hóa đặc sắc với nghệ thuật chạm khắc tinh xảo và độc đáo các đề tài rồng, phượng, hươu, hoa lá, cảnh sinh hoạt của con người. Hiện đình còn lưu giữ được nhiều di vật quý như: hai bức tranh sơn mài “Bát tiên” ở gian giữa trước cửa hậu cung, đôi nghè gỗ sơn son thếp vàng từ thế kỷ 17, tượng Phương Dung Tiên Chúa cùng bài vị Cao Sơn Đại Vương..., đặc biệt là bức chạm tiên gảy đàn đáy - một minh chứng cho sự ra đời và phát triển sớm của ca trù ở Việt Nam. Ban đầu, đình Lỗ Hạnh chỉ có một tòa đại đình hình chữ “nhất”. Qua nhiều lần tu sửa vào các năm 1694, 1850 và 1910, đình được xây thêm hậu cung và hai dãy tả vu, hữu vu. Nền tòa đại đình dài 23,5m, rộng 12,3m, chiều cao từ xà nóc xuống là 6,6m, từ diềm mái xuống là 2,1m; bao gồm 5 gian, 2 chái với 8 vì kèo, 4 hàng cột chính và 2 hàng cột hiên đỡ dưới các bẩy. Các vì kèo có kết cấu không giống nhau, các vì gian giữa đều theo lối “chồng rường giá chiêng”, các vì gian bên làm theo lối “kẻ truyền giá chiêng”. Ngày 24/12/1982, đình Lỗ Hạnh đã được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng Di tích lịch sử. NGUỒN: KHÁM PHÁ DU LỊCH VIỆT NAM TỈNH BẮC GIANG
Bắc Ninh 2001 lượt xem
Thành nhà Mạc đắp bằng đất từ cuối thế kỷ XVI chạy từ Nam lên Bắc từ núi Bảo Đài qua núi Ải (Đông Phú) ven theo mạn bắc núi chạy vào khu Trại Mít (Tiên Nha) rồi ăn vào sông Lục Nam, qua bờ bên Đông, chạy vào đất làng Vườn, làng Hố Nước, vào khu vực đền Hàn Lâm (Nghĩa Phương), rồi dừng lại ở chân núi Mang thuộc dãy Huyền Đinh - Yên Tử. Thành nhà Mạc chạy cắt ngang thung lũng sông Lục Nam chừng 18km, là một di tích về tài năng quân sự thời cổ. Thời Lê Trung Hưng để lại ở Bắc Giang nhiều công trình kiến trúc cổ là đình, chùa, tiêu biểu như đình Thổ Hà, đình Hương Câu, đình Đông Lâm, đình Sàn, đình Thân, đình Đan Hội, đình Hà Mỹ, đình Bảo Sơn, đình Gai, đình Trung Đồng…, chùa Tè, Trung An, làng Non, Khám Lạng, chùa Trắng (Đông Phú) làng Vườn (Cương Sơn), làng Húi (Đan Hội)…, hệ thống lăng đá cổ Hiệp Hòa, Việt Yên, Tân Yên. Thời Tây Sơn ở Lục Nam còn ngôi đình Rìa (Đông Phú) có niên đại tạo dựng: Hoàng Triều Bảo Hưng nhị niên tạo (tức niên hiệu Bảo Hưng năm thứ 2 -1802). Thời cận đại ghi dấu đậm nét tại các di tích trong hệ thống di tích liên quan tới cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế. Thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ, Bắc Giang có Trung tâm huấn luyện quân Mai Sưu, địa điểm bắn rơi máy bay Mỹ xã Dương Hưu, xã Nghĩa Phương. NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH
Bắc Ninh 1672 lượt xem
Đình Rừng Cấm thuộc thôn Phe xã Vân Sơn là nơi thờ phụng anh hùng thời nhà Tống thế kỷ XI – tức Phò mã Thân Cảnh Phúc lấy công chúa Thiên Thành con Vua Lý Thánh Tông và là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của đồng bào dân tộc Tày vùng Vân Sơn. Đình rừng cấm nằm tọa lạc trên khu đất có địa thế đẹp, nằm giữa cánh đồng, có cây cổ thụ tỏa bóng mát, phía trước Đình là suối Chặng Nàm dẫn nước chảy uốn lượn bao quanh; Đình rừng cấm hiện nay có Tòa tiền đình 3 gian, hậu cung 1 gian nhìn về hướng Đông, trong đình còn bảo lưu được 4 chân tảng bằng đá và 1 hòn đá âm dương có giá trị rất lớn trong nghiên cứu khoa học và tìm hiểu lịch sử di tích của địa phương. Hàng năm, nhân dân mở hội vào ngày 11/3 âm lịch với nghi thức tế, dâng hương để tưởng nhớ công đức của vị Thành Hoàng Làng đã có công với dân với nước. Với các giá trị lịch sử, văn hóa, ngày 7/12/2021, UBND tỉnh Bắc Giang đã ban hành quyết định số 2499/QĐ - UBND xếp hạng Đình Rừng Cấm là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 2021. Tại buổi lễ, thừa ủy quyền của Chủ tịch UBND tỉnh, lãnh đạo Bảo tàng tỉnh Bắc Giang và Phòng VHTT huyện đã trao Bằng xếp hạng di tích cấp tỉnh Khu di tích Đình Rừng Cấm cho Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân xã Vân Sơn. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN SƠN ĐỘNG
Bắc Ninh 1742 lượt xem
Đình, chùa Lãn Tranh trước kia thuộc xã Lãn Tranh, tổng Tuy Lộc Sơn, phủ Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Nay đình, chùa Lãn Tranh thuộc 3 thôn (Lãn Tranh 1, Lãn Tranh 2, Lãn Tranh 3), xã Liên Chung, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, làng Lãn Tranh đồng thời là xã Lãn Tranh thuộc tổng Tuy Lộc Sơn, phủ Yên Thế, tỉnh Bắc Giang gồm 3 làng: làng Giữa, làng Dưới, làng Trên. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cấp tổng bị loại bỏ. Năm 1957 thành lập huyện Tân Yên, địa danh này thuộc xã Hòa Bình. Năm 1973 đổi tên là xã Liên Chung. Căn cứ hiện trạng di tích, các nguồn tài liệu hiện vật, đồ thờ tự có trong di tích cho thấy đình Lãn Tranh được khởi dựng từ thời Lê Trung Hưng (khoảng thế kỷ XVIII). Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, năm 1946 nhân dân đã công đức một số đồ thờ tự bằng đồng và bằng gỗ cho cách mạng nên ngôi đình không còn được nguyên vẹn như xưa. Đến nay nhân dân làng Lãn Tranh đã trùng tu lại ngôi đình bằng số nguyên vật liệu và hiện vật cũ. Đình, chùa được bố trí theo kiểu “Tiền thần hậu Phật” (đình trước chùa sau). Khu di tích mang vẻ đẹp cổ kính của công trình kiến trúc đời Lê Trung Hưng có giá trị lịch sử, văn hóa. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đình, chùa Lãn Tranh còn là nơi phát triển lực lượng tự vệ, bảo vệ cán bộ cách mạng, cất giữ lương thực, thực phẩm phục vụ cho cuộc kháng chiến. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đình, chùa là nơi trại giam Kế về sơ tán. Căn cứ vào thực trạng di tích, vào các nguồn tư liệu và hiện vật như hoành phi, câu đối, văn cúng, văn tế, đồ thờ tự… có trong di tích và sự thờ phụng thành kính của nhân dân làng Lãn Tranh cho biết, đình Lãn Tranh thờ thần Cao Sơn, Quý Minh. Đình tọa lạc trên một gò đất hình con rùa ở rìa làng, trong một không gian yên tĩnh, nhìn ra hướng nam ghé đông. Phía trước đình là cánh đồng rộng bên trái là dòng sông Thương uốn lượn. Xung quanh 3 mặt là khu dân cư sinh sống đông đúc, tạo cho cảnh quan vừa yên tĩnh nhưng lại ấm áp tình làng xóm, thôn quê. Đi qua đường làng ta rẽ vào bãi đất rộng và vào sân đình. Sân đình hình vuông rộng rãi. Phía bên phải đình là sân bóng rộng, trước đây chính là ao cửa đình. Đình Lãn Tranh có bố cục mặt bằng theo hình chữ Nhị, gồm: tòa tiền tế và tòa hậu cung. Đi qua sân đình vào tòa tiền tế. Tòa này có bờ nóc đắp thẳng, bên trên có hình lưỡng long chầu nguyệt. Hai đầu hồi được xây theo kiểu tay ngai tam sơn giật cấp. Phía trước cạnh hồi của tòa tiền tế là hai cột đồng trụ có ghi hai câu đối. Tòa tiền tế có 5 gian 2 dĩ, cửa pa nô. Kích thước của mỗi gian rộng 2,5m, hai đầu dĩ rộng 0,5m. Chiều cao từ mặt nền đến nóc đình là 4,25m. Tòa này có 5 gian 6 vì và 5 hàng chân cột. Cột cái cao 3,55m, cột quân cao 2,7m, cột hiên cao 2,15m. Kết cấu kiến trúc của tòa tiền tế theo lối kẻ truyền, giá chiêng. Tòa hậu cung có gian 2 vì, giữa còn hai vì hồi gác tường xây bít đốc và 3 hàng chân cột bằng 6 cây cột. Mỗi gian có chiều rộng là 2,4m, chiều cao từ mặt đất nền đến nóc hậu cung là 3,50m. Khoảng cách giữa hai cột cái là 1,5m. Nghệ thuật điêu khắc đình Lãn Tranh được thể hiện tập trung ở các cấu kiện kiến trúc. Đó là hệ thống chân cột, kết cấu kiến trúc, tường, đấu kê, đầu dư, kẻ bẩy… Trên các đầu dư ở mỗi cột đều được khắc biểu tượng vân xoắn uốn lượn đẹp mắt, thể hiện ước muốn của người dân Việt Nam muốn cầu cho mưa thuận gió hòa, để đời sống được ấm no. Đặc biệt trong đình có những hệ thống chân cột to khỏe, vững chắc, các đấu kê, con đường đều được ăn khớp vào nhau vừa tạo ra dáng vẻ chắc khỏe, thanh thoát, đĩnh đạc. Điều đó khẳng định được tài năng sáng tạo của các nghệ nhân xưa, để có một công trình kiến trúc to đẹp, hoành tráng cho chúng ta ngày hôm nay. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ XÃ CẢNH THỤY - HUYỆN YÊN DŨNG - TỈNH BẮC GIANG
Bắc Ninh 1777 lượt xem