Di tích lịch sử

Việt Nam

Gò Đống Đa

Gò Đống Đa (còn gọi là Công viên Văn hóa Đống Đa) thuộc phường Quang Trung, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Sử sách cũ ghi lại và theo hồi cố của các cụ cao niên ở làng Thịnh Quang, Gò Đống Đa xưa kia nằm tại khu vực gần phía ngoài Kinh đô Thăng Long, thuộc đất làng Khương Thượng, huyện Quảng Đức, phủ Thuận Thiên. Đây cũng là một trong các bãi chiến trường diễn ra trận đại phá quân Thanh của Hoàng đế Quang Trung mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789). Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ Quang Trung Hoàng đế (1753 - 1792) hay Bắc Bình Vương, tên thật là Nguyễn Huệ, sau đổi tên thành Nguyễn Quang Bình - là vị Hoàng đế thứ hai của Nhà Tây Sơn, sau khi Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc thoái vị và nhường ngôi cho Ông. Quang Trung không những là một vị tướng lĩnh quân sự xuất sắc, mà còn là nhà chính trị tài giỏi, đưa ra nhiều cải cách kinh tế, xã hội nổi bật trong lịch sử Việt Nam. Ông và hai người anh em được biết đến với tên gọi “Tây Sơn tam kiệt”, là những lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, chấm dứt cuộc nội chiến phân tranh giữa nhà Trịnh (phía Bắc) và nhà Nguyễn (phía Nam), lật đổ hai tập đoàn phong kiến này cùng nhà Hậu Lê, chấm dứt tình trạng phân biệt Đàng Trong - Đàng Ngoài kéo dài suốt 2 thế kỷ. Ngoài ra, Quang Trung còn là người đánh bại các cuộc xâm lược Đại Việt của Xiêm La từ phía Nam, của Đại Thanh từ phía Bắc. Trong 20 năm liền đã trải qua hàng chục trận đánh lớn và chưa hề thua một trận. Đồng thời, khi ở cương vị Hoàng đế, Ông cũng tỏ rõ tài cai trị khi đề ra nhiều kế hoạch cải cách tiến bộ trong kinh tế, văn hóa, giáo dục, quân sự,... nhằm xây dựng đất nước và tiếp thu khoa học kỹ thuật hiện đại từ phương Tây. Cuộc đời và sự nghiệp của Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ được các sử gia đánh giá là đã đóng góp quyết định vào sự nghiệp thống nhất đất nước của triều đại Tây Sơn. Công lao trị nước bình thiên hạ của ông được các bộ sử của nhà Hậu Lê và nhà Nguyễn, các sử gia cận đại, hiện đại đánh giá rất cao. Khi Ông mất, nhân dân nhiều nơi đã xây lăng, lập đền thờ, dựng tượng đài và bảo tàng để tưởng nhớ công lao của Ông. Chiến dịch Ngọc Hồi - Đống Đa, giải phóng Kinh thành Thăng Long: Về di tích lịch sử Gò Đống Đa, hiện có rất nhiều tài liệu và các công trình nghiên cứu của các chuyên gia và các nhà khoa học về những sự kiện đã từng diễn ra tại đây và các chiến trường phụ cận. Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa nói chung và chiến thắng Đống Đa nói riêng mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) là một trong những trận chiến chống ngoại xâm nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam và được các nhà nghiên cứu Việt Nam đánh giá là chiến công oanh liệt nhất của Hoàng đế bách chiến bách thắng Quang Trung - Nguyễn Huệ. Chiến thắng này đã chặn đứng ý định xâm chiếm Đại Việt của nhà Thanh dưới thời Càn Long thịnh trị. Vì vậy, nói về giá trị đặc biệt của di tích này là nói đến giá trị lịch sử, về nghệ thuật quân sự đặc sắc với những bước tiến quân thần tốc, bất ngờ, táo bạo tạo lên chiến thắng vang dội, làm cho quân địch không kịp trở tay. Di tích Gò Đống Đa nguyên xưa là một trong những quả gò thuộc xứ Đống Đa. Trải qua năm tháng, trên các gò đống đó, cây cối mọc um tùm, nhiều nhất là cây đa nên nhân dân thường gọi những gò đống đó là gò Đống Đa. Địa danh có những gò đống đó gọi là xứ Đống Đa. Đến giữa thế kỷ XIX, các gò đống này vẫn còn y nguyên. Theo tấm bản đồ Hà Nội vẽ năm Tự Đức 26 (1873) thì chỉ còn 6 gò trong khu vực ghi là Đống Đa xứ. Trong khoảng đời Nguyễn và Pháp thuộc, những chiến tích lịch sử đó không được bảo vệ nên đã bị phá hoại dần, nhiều gò bị san bằng. Hiện nay chỉ còn lại hai gò được gọi là gò Đống Đa, tức gò thứ 13 lập thêm năm 1851 (trên gò có đền Trung Liệt nên gọi là gò Trung Liệt) và gò đống Thiêng (trong khu Thái Hà ấp, trên gò trước đây có chùa của làng Thịnh Quang, gọi là chùa Thiêng). Phía sau chùa Bộc, giáp chùa Đồng Quang còn gò Đầu Lâu nhưng đã bị phá từ lâu, nhân dân chỉ còn ghi nhớ vị trí và tên gò. Năm 2010, nhân Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, di tích Gò Đống Đa đã được tu bổ, tôn tạo và xây mới một số hạng mục công trình với tổng diện tích hơn 22.120,8m2. Hiện tại, Gò Đống Đa bao gồm các hạng mục: Cổng, Gò Đống Đa, nghi môn, tượng đài Quang Trung, đền thờ Hoàng đế Quang Trung và các công trình phụ trợ. Một số di tích liên quan tới di tích Gò Đống Đa: * Chùa Bộc: Trong trận Đống Đa, chùa bị thiêu trụi (1789), năm 1792 được trùng tu lại trên nền cũ, làm nơi quy y cho vong hồn quân Thanh và được đổi tên là chùa Thiên Phúc. Tuy nhiên, nhân dân vẫn quen gọi là Chùa Bộc để chỉ xác giặc bị phơi ra khắp nơi (Bộc có nghĩa "phơi bày", ngôi chùa được xây dựng ngay nơi chiến địa mà quân thù chết phơi thây). Chùa có liên hệ mật thiết với chiến thắng Kỷ Dậu (1789) của quân Tây Sơn. Ngay phía trước chùa Bộc vẫn còn một cái hồ, được gọi là hồ Tắm Tượng, nơi đội hình voi của nghĩa quân Tây Sơn tắm sau khi hạ được đồn Khương Thượng. Sau lưng chùa có di tích Loa sơn, nơi tướng giặc Sầm Nghi Đống sau khi thất trận đã thắt cổ tự tử. Trong chùa còn có Thanh miếu - tức miếu thờ Sầm Nghi Đống cũng như quân lính nhà Thanh đã chết trong chiến trận. * Chùa Kim Sơn: Khu vực này trước kia là bãi tha ma, thi hài các chiến sĩ tử trận trong trận Đống Đa (1789) được đưa vào an táng tại nghĩa địa này. Đây cũng là nơi cầu siêu cho những linh hồn binh sĩ tử nạn trong chiến dịch Ngọc Hồi - Đống Đa, giải phóng Kinh thành Thăng Long vào mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789). * Chùa Nam Đồng: Chùa Nam Đồng (có tên là Càn An tự), nằm đối diện với di tích Gò Đống Đa. Đây là một ngôi chùa cổ, hiện còn lưu giữ hai tấm bia có các niên đại 1621 (có nhắc đến xứ Đống Đa) và 1697, một quả chuông đúc năm 1812. Như vậy, địa danh này có trước khi xảy ra cuộc chiến năm 1789. Sau khi kết thúc chiến tranh, ngôi chùa này là một trong những chốn tâm linh hương khói cho những binh lính tử trận trong chiến dịch Ngọc Hồi - Đống Đa. Với giá trị đặc biệt nêu trên, Di tích lịch sử Gò Đống Đa đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt tại Quyết định số 1820/QĐ-TTg ngày 24/12/2018./. Nguồn Cục di sản Văn hóa .

Hà Nội 2336 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch

Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch thuộc địa phận phường Ngọc Hà, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và làm việc lâu nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người (từ ngày 19 tháng 12 năm 1954 đến ngày 02 tháng 9 năm 1969), đồng thời là trụ sở làm việc của Trung ương Đảng và Nhà nước Việt Nam sau khi Cách mạng tháng Tám thành công (1945). Tổng diện tích Khu lưu niệm rộng hơn 10ha, gồm hệ thống nhà cửa, sân, vườn, thảm cỏ, ao cá, đường đi, trong đó nổi bật là 3 điểm di tích thành phần: Nhà 54, Nhà sàn của Bác và Nhà 67. Nhà 54 Chủ tịch Hồ Chí Minh từng ở và làm việc tại ngôi nhà này trong khoảng thời gian gần 4 năm (từ tháng 12 năm 1954 đến giữa tháng 5 năm 1958). Sau đó, Người chuyển sang ở ngôi nhà sàn, được xây dựng trong khu vườn Phủ Chủ tịch, nhưng Người vẫn trở về nơi đây để dùng cơm hàng ngày và khám sức khoẻ định kỳ. Bởi vậy, Nhà 54 vẫn là nơi gắn bó với cuộc sống thường nhật của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt 15 năm cuối cùng của cuộc đời. Nhà 54 có ba phòng, phía giáp ao là phòng làm việc và cũng là nơi Người tiếp khách, ở giữa là phòng ăn, kế tiếp là phòng ngủ. Tại phòng ăn của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện đang trưng bày một bộ đồ ăn Người thường sử dụng hàng ngày. Trong phòng ngủ, đồ dùng sinh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thật đơn giản, như mọi người dân bình thường: một bộ bàn ghế để Người đọc sách ban đêm, một chiếc giường nhỏ đơn giản không kiểu cách, cầu kỳ, một chiếc tủ đựng quần áo - trong tủ chỉ có vài ba bộ quần áo Người mặc hàng ngày và bộ quần áo kaki Người dùng khi tiếp khách hoặc đi công tác... Tổng số tài liệu hiện vật ở trong Nhà 54 gần 400 đơn vị, riêng hiện vật thuộc chất liệu giấy đã có hơn 300 đơn vị. Có thể coi đây là những bằng chứng xác thực nhất, gây ấn tượng mạnh mẽ, xúc động nhất về một cuộc sống thường nhật hết sức thanh bạch, giản dị, nhưng ngăn nắp, khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhà sàn của Bác Đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ở và làm việc về mùa hè, cũng là nơi Người họp, trao đổi công việc với các đồng chí trong Bộ Chính trị, cán bộ phụ trách các Bộ, ngành hoặc các địa phương, đặc biệt là cán bộ, chiến sĩ miền Nam ra miền Bắc chữa bệnh và công tác. Tầng trên của Nhà sàn có một phòng làm việc và một phòng ngủ của Người. Phòng làm việc có đặt một bàn, một ghế, một giá sách. Ngăn dưới cùng của giá sách là chiếc máy chữ, được Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng hàng ngày như một cây bút. Tại phòng ngủ, tiện nghi sinh hoạt của Người thật đơn giản: chiếc giường gỗ trải chiếu cói, mùa đông có thêm tấm đệm, chăn bông và một lò sưởi điện nhỏ. Trên bàn làm việc ở phòng ngủ của Người vẫn còn một số sách, tạp chí, chiếc mũ cát và chiếc đài bán dẫn của bà con Việt kiều Thái Lan kính biếu Người. Trên chiếc tủ nhỏ đặt ở đầu giường vẫn còn chiếc đồng hồ và cuốn sách Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII mà Người đang đọc dở. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng ở và làm việc tại ngôi nhà này trong khoảng 11 năm cuối đời (1958 - 1969). Hiện nay, gần 250 tài liệu của Bác và toàn bộ kiến trúc, khuôn viên của Nhà sàn vẫn được bảo quản, giữ gìn như những ngày cuối cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và làm việc ở đây. Nhà 67 Ngôi nhà này nằm phía sau Nhà sàn (cách khoảng 30m), được khởi công xây dựng ngày 1/5/1967, khánh thành ngày 20/7/1967. Đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh thường họp với Bộ Chính trị, cũng là nơi Người làm việc trong thời gian đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc (1967 - 1969), nơi Người chữa bệnh và qua đời, nên thường được gọi là Nhà 67 hoặc DK2. Vào năm 1967, cuộc phiêu lưu mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ ngày càng trở nên ác liệt; Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác cùng nhiều khu công nghiệp bị bắn phá ngày đêm. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đã quyết định xây dựng ở phía sau Nhà sàn một ngôi nhà kiên cố, phía bên phải có hầm phòng không, để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho Người khi máy bay Mỹ bắn phá bất ngờ. Các đồng chí cán bộ, chiến sĩ ở Cục Công trình, thuộc Bộ Tư lệnh Công binh được giao nhiệm vụ thiết kế và xây dựng công trình này. Tường nhà dầy hơn 60cm, trần nhà dày hơn 1 mét, đều được làm bằng bê tông, cốt thép… Chủ tịch Hồ Chí Minh không nhận ngôi nhà này cho riêng mình. Người đề nghị sử dụng làm nơi họp Bộ Chính trị, làm việc với các đồng chí Trung ương để bàn những vấn đề quan trọng của đất nước. Từ ngày 25/8/1969 trở đi, Chủ tịch Hồ Chí Minh lâm bệnh nặng, diễn biến bệnh tình mỗi ngày một xấu và phức tạp. Theo quyết định của Bộ Chính trị, Nhà 67 trở thành nơi điều trị bệnh cho Người. Các đồng chí trong Bộ Chính trị, các giáo sư, bác sĩ đầu ngành đều tập trung về đây để chăm lo sức khỏe cho Bác. Vì tuổi cao, sức yếu, Chủ tịch Hồ Chí Minh không vượt qua được cơn bệnh hiểm nghèo. Chiếc đồng hồ trên tủ nhỏ ở cạnh giường và cuốn lịch treo tường dừng lại thời khắc Người đi xa: 9 giờ 47 phút, ngày 02/9/1969. Bốn mươi năm qua, trong ngôi nhà này, gần 100 tài liệu, hiện vật vẫn được gìn giữ, xếp đặt vẹn nguyên như xưa, luôn gợi lại những hoạt động và những vấn đề của Chủ tịch Hồ Chí Minh đang quan tâm trong những ngày cuối đời của Người. Có thể khẳng định rằng, Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch là một trong những di tích có giá trị đặc biệt trên nhiều phương diện. Trong 15 năm sống tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Chính phủ đề ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn cho cách mạng Việt Nam và lãnh đạo nhân dân vượt qua những thử thách cam go ác liệt để thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam tiến tới thống nhất đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ, vì hòa bình và tiến bộ xã hội của thế giới. Với tất cả những ý nghĩa đó, sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa, nơi Người ở và làm việc cùng với các di tích, kỷ vật ở đây đã trở thành những vật chứng quý giá, biểu tượng thiêng liêng về cuộc sống, hoạt động của Người trong 15 năm cuối đời, phản ánh những giá trị cao đẹp nhất của tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của Khu lưu niệm, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch (quận Ba Đình, thành phố Hà Nội) là di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 1272/QĐ-TTg, ngày 12/8/2009). Nguồn Cục di sản văn hóa

Hà Nội 2330 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Chùa Hương (Hương Sơn )

Chùa Hương (cách gọi dân gian) hay Hương Sơn là một quần thể văn hóa - tôn giáo của Việt Nam, gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, các ngôi đền thờ Thần và các ngôi đình thờ tín ngưỡng nông nghiệp. Trung tâm của cụm đình đền chùa này là chùa Hương (tức chùa Trong) nằm trong động Hương Tích ở hữu ngạn sông Đáy, thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội. Quần thể Hương Sơn là một trong 21 Khu du lịch Quốc gia của Việt Nam và là Di tích Quốc gia Đặc biệt theo quyết định 2082/QĐ-TTg năm 2017 Chùa Hương có lịch sử từ thế kỷ 15, được xây dựng với quy mô chính vào khoảng cuối thế kỷ 17, sau đó bị hủy hoại trong chiến tranh Đông Dương năm 1947 rồi được phục dựng lại từ năm 1989 bởi Hòa thượng Thích Viên Thành dưới sự chỉ dạy của cố Hòa thượng Thích Thanh Chân. Khi xưa vua Lê Thánh Tông đi tuần thú qua đây lần thứ 2 vào tháng giêng năm Đinh hợi, niên hiệu Quang thuận thứ 8 (1467) đã đóng quân nghỉ lại ở thung lũng này và cho quân lính thổi cơm ăn, vua xem thiên văn thấy vùng này lâm vào địa phận của sao Thiên Trù, (một sao chủ về sự ăn uống và biến động) nên nhân đấy đặt tên là chùa Thiên Trù. Ba vị Hòa thượng đời vua Lê Thánh Tông 1442 – 1497 đã tìm thấy động Hương Tích và dựng lên thảo am Thiên Trù. Kể từ đó động Hương Tích được gọi là chùa trong, Thiên Trù gọi là chùa ngoài, rồi người ta lấy tên chung cho hai nơi và cả khu vực là chùa Hương hay “Hương Thiên Bảo Sái”. Sau thời kỳ ba vị Hòa thượng khai sáng, chùa Thiên Trù chùa Hương gián đoạn trụ trì, mãi tới niên hiệu Chính Hòa năm thứ bẩy 1686 của thời vua Lê Trung Hưng. Hòa thượng Trần Đạo Viên Quang, (tương truyền cũng là một quan chức trong triều đình đã treo ấn từ quan để đi tu) mới lại tiếp tục công việc tạo dựng. Trải qua nhiều đời chư Tổ gây dựng, đến nửa đầu thế kỷ 20, nơi đây được khách thập phương ngợi ca ví như tòa lâu đài tráng lệ “Biệt chiếm nhất Nam thiên”. Nhưng đáng tiếc ngày 11 tháng 2 năm Đinh Hợi 1947, thực dân Pháp đưa quân vào đây đốt phá, biến Thiên Trù thành đống gạch vụn tro tàn. Năm 1948, giặc lại vào đốt phá lần nữa, rồi năm 1950 quân Pháp lại cho máy bay thả bom khiến cho cao chất ngất mấy tòa cổ sái của Thiên Trù bị san phẳng . Dấu vết xưa của Thiên Trù hiện nay chỉ còn lại vườn Tháp, trong đó có Bảo Tháp Viên Công, một công trình nghệ thuật đất nung của thế kỷ thứ 17 và cây Thiên Thủy Tháp. Năm 1951, Hòa thượng Thanh Chân đã cho dựng lên từ đồng tro tàn đô nát 6 gian nhà tranh đề có nơi tu hành và nhang khói. Vào năm 1989, dưới sự trụ trì của cố Thượng tọa Thích Viên Thành, Ban xây dựng Chùa Hương đã khởi công tái thiết lại chùa Thiên Trù đến năm 1991 thì khánh thành. Năm 1994, cổng Nam Thiên Môn cũng được hoàn thành, đứng sừng sững giữa núi rừng Hương Sơn. Những năm sau này, tiếp nối Tông phong Hương Tích, Thượng tọa Thích Minh Hiền - trụ trì đời thứ 12- mở mang xây dựng thêm nhiều công trình mới, để đến ngày nay, chúng ta đến đây được chiêm ngưỡng quần thể kiến trúc nguy nga, hoành tráng, rất đẹp. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Hà Nội.

Hà Nội 2356 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Cột cờ Hà Nội

Kỳ đài, “Cột cờ Hà Nội” nằm trên đường Điện Biên Phủ, thuộc quận Ba Đình, Hà Nội, được xây dựng năm 1812, dưới thời Vua Gia Long triều Nguyễn trên phần đất phía nam của Hoàng thành Thăng Long, nơi xây tòa thành Tam Môn của Hoàng thành Thăng Long thời Lê. Đây là điểm chuẩn, đánh dấu sự khởi nguyên ở đầu phía nam trục chính tâm của tòa thành, từ đây theo đường “ngư đạo”, qua Đoan Môn rồi tới điểm quan trọng nhất, điểm trung tâm của Hoàng thành là điện Kính Thiên. Cột cờ Hà Nội nay là công trình còn nguyên vẹn và hoành tráng nhất trong quần thể di tích Hoàng thành Thăng Long. Cột Cờ được xây dựng bao gồm ba tầng đế và một thân cột. Các tầng đế hình chóp vuông cụt, nhỏ dần, chồng lên nhau, xung quanh xây ốp gạch. Tầng một mỗi chiều dài 42,5m; cao 3,1m có hai thang gạch dẫn lên. Tầng hai, mỗi chiều dài 27m; cao 3,7m có 4 cửa, cửa hướng Đông trên có đắp hai chữ “Nghênh Húc” (đón ánh sáng ban mai), cửa Tây với hai chữ “Hồi Quang” (ánh sáng phản chiếu), cửa Nam với hai chữ “Hướng Minh” (hướng về ánh sáng), cửa Bắc không có chữ đề. Tầng ba, mỗi chiều dài 12,8m; cao 5,1m có cửa lên cầu thang trông về hướng Bắc. Trên tầng này là thân Cột Cờ, cao 18,2m; hình trụ tám cạnh, thon dần lên trên, mỗi cạnh đáy chừng 2m. Trong thân có cầu thang 54 bậc xây xoáy trôn ốc lên tới đỉnh. Toàn thể được soi sáng (và thông hơi) bằng 39 lỗ hình dẻ quạt. Đỉnh Cột Cờ được cấu tạo thành một cái lầu hình bát giác, cao 3,3m có 8 cửa sổ tương ứng với tám cạnh. Giữa lầu là một hình trụ tròn, đường kính 40cm cao đến đỉnh lầu, là chỗ để cắm cán cờ (cán cờ cao 8m). Toàn bộ Cột Cờ cao 33,4m, nếu kể cả cán cờ thì là 41,4m. “Cột cờ Hà Nội” là một trong số ít những công trình kiến trúc thuộc khu vực thành Hà Nội có may mắn thoát khỏi sự phá hủy do chính quyền đô hộ Pháp tiến hành trong ba năm 1894-1897. Ngày 10/10/1954, lần đầu tiên lá cờ đỏ sao vàng – cờ Tổ quốc tung bay trên đỉnh “Cột cờ Hà Nội” và được công nhận là di tích lịch sử năm 1989. Ngày 10/10/1954, cả Hà Nội tưng bừng rạo rực chào đón ngày hội lớn, ngày Hội chiến thắng, Thủ đô Hà Nội hoàn Tòan giải phóng. Cả Hà Nội dồn về “Cột cờ Hà Nội” chờ đón giây phút lịch sử: Lễ thượng cờ Tổ quốc trên đỉnh “Cột cờ Hà Nội”. Đúng 15 giờ, ngày 10/10/1954, còi nhà hát Thành phố nổi lên một hồi dài. Đoàn quân nhạc cử Quốc thiều theo sự điều khiển của đồng chí Đinh Ngọc Liên, Lá cờ tổ quốc được kéo lên từ từ theo nhịp khúc quân hành. Lần đầu tiên lá cờ đỏ sao vàng – cờ Tổ quốc tung bay trên đỉnh “Cột cờ Hà Nội”. Từ ngày xây dựng đến nay, “Cột cờ Hà Nội” đã gần hai trăm năm tuổi. Khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, hình ảnh của “Cột cờ Hà Nội” đã được in trang trọng trên đồng tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành lần đầu tiên. Hơn nửa thế kỷ qua, gắn trên đỉnh “Cột cờ Hà Nội” là lá cờ đỏ sao vàng năm cánh tung bay lồng lộng trên nền trời của Thủ đô Thăng Long-Hà Nội ngàn năm văn hiến, mãi mãi là biểu tượng vinh quang, là niềm tự hào của dân tộc, đất nước Việt Nam độc lập, tự do. Theo tài liệu nghiên cứu, từ năm 1986, một lá cờ đỏ sao vàng kích cỡ 24 m2 vuông luôn tung bay trên Cột cờ Hà Nội. Cột cờ Hà Nội ngày nay nằm bên đường Điện Biên Phủ, với những cây xà cừ cổ thụ mọc xung quanh và dưới chân là một vườn nhãn um tùm. Theo một số tài liệu nghiên cứu, trong một bức ảnh được chụp vào năm 1890 bởi Louis Sadoul, một sĩ quan quân y Pháp, khu vực vườn hoa Tượng đài Lênin dưới chân cột cờ ngày nay còn là hồ Voi vì là nơi tắm voi của triều đình nhà Nguyễn. Còn các rặng cây cổ thụ ngày nay khi đó còn chưa được trồng. Trong ảnh, còn có thể thấy quân Pháp đã dựng doanh trại bán kiên cố trên các vòng thành của Cột cờ để đóng quân. Cũng trong thời kỳ này, Cột cờ Hà Nội còn được quân Pháp dùng để làm đài quan sát. Trong cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, Cột cờ cũng là đài quan sát của bộ đội phòng không Hà Nội. Khi đó, từ đỉnh cột cờ có thể nhìn thấy cả Hà Nội và vùng ngoại ô. Điều đặc biệt là giữa những ngày nóng nhất của Hà Nội, nhiệt độ bên trong của Cột cờ luôn mát mẻ như có máy lạnh. Kết cấu các cửa lên xuống của Cột cờ cũng khoa học đến mức mưa lớn đến đâu nước cũng không chảy vào trong lòng tháp. Nguồn: Trung Tâm Bảo Tồn Di Sản Thăng Long - Hà Nội

Hà Nội 2741 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Nhà tù Hỏa Lò

Nhà tù Hỏa Lò được xây dựng vào năm 1896, ban đầu có tên là Prison Centrale (Nhà tù trung ương), song để tránh sự tò mò và kích động của dân chúng nên đổi thành Maison Centrale (Ngôi nhà Trung ương) và hiện tên vẫn còn trên cánh cổng chính dẫn vào di tích. Nhà tù này được Pháp xây dựng năm 1896 ở khu vực ngoại ô thành phố với mục đích làm ngục thất trung ương cho cả hai xứ Trung cũng như là Bắc Kỳ. Nơi đây giam giữ chủ yếu là các tù nhân chính trị và các nhà ái quốc chống chính quyền thực dân. Được mệnh danh là địa ngục trần gian, trong suốt thời gian hoạt động của mình, nhà tù Hỏa Lò đã trở thành nơi giam giữ của biết bao thế hệ chiến sĩ, nhà hoạt động cách mạng Việt Nam với kiến trúc trại giam được thiết kế với các hình thức tra tấn, ép cung vô cùng dã man, tàn nhẫn. Điển hình nhất là cỗ máy chém đã đưa nhà tù ghi danh vào top 10 nhà tù khét tiếng nhất thế giới. Tổng diện tích của cả khu nhà tù trước kia rộng lên đến hơn 12.000m2. Tuy nhiên, ngày nay chỉ còn 2.434m2 là được giữ lại nhằm bảo tồn để trở thành khu di tích. Cũng do được xây trên đất của làng Phụ Khánh, tổng Vĩnh Xương (cũ) là làng nghề chuyên sản xuất đồ gốm, ngày đêm rực lửa lò nung vì thế làng còn có tên là Hỏa Lò. Dưới thời Pháp thuộc, ngục Hỏa Lò được thiết kế xây dựng với cấu trúc bao gồm những bức tường đá cao 4m, dày 0,5m được gia cố thêm dây thép điện. Cả khu vực ngục tù được chia thành 4 khu A, B, C, D. Trong đó: - Khu A, B: Dành cho các phạm nhân đang được điều tra, phạm nhân không quan trọng hoặc phạm nhân vi phạm vào kỉ cương của nhà tù. - Khu C: Dành cho tù nhân Pháp hoặc ngoại quốc. - Khu D: Dành cho các phạm nhân đang chờ thụ án tử hình Nhà tù Hỏa Lò được mệnh danh là Địa ngục trần gian với thiết kế xây dựng của trại giam cho phép Hỏa Lò chứa khoảng 500 tù nhân. Các nhà giam đều được thiết kế với chế độ giam giữ, ép cung hà khắc và cực kỳ dã man tàn bạo. Từ một làng nghề thủ công làm đồ gốm có tiếng, thực dân Pháp đã biến mảnh đất Hỏa Lò thành nơi giam cầm và đày ải về thể xác và tinh thần của hàng ngàn chiến sĩ yêu nước. Sống trong ngục tù đế quốc với chế độ giam cầm hà khắc, đọa đày nhưng các chiến sĩ vẫn giữ vững khí tiết, biến nhà tù thành trường học, nơi phổ biến lý luận cách mạng. Một vài dụng cụ tra tấn điển hình như những chiếc máy chém, máy quay điện, ba toong… Thực dân Pháp rất chú trọng trong việc xây dựng nên tất cả các thiết kế cửa, khóa, gông cùm ở đây đều là các thiết kế chuyên biệt mang từ bên Pháp sang, được quản lý vô cùng chặt chẽ. Ngay từ khi chưa hoàn thành, tháng 1/1899, nhà tù Hỏa Lò đã đảm nhận việc giam người. Theo thiết kế ban đầu, nơi đây chỉ đủ giam giữ 500 tù nhân nhưng nhà tù đã nhiều lần được mở rộng để có thêm chỗ giam. Vào những năm 1950- 1953, Hỏa Lò giam cầm tới 2.000 người tù. Trở thành địa ngục trần gian không ai muốn bước vào. Ngục tối được xem như nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với bất kì tù nhân nào với những cái tát nảy lửa, những trận đòn, bị gông, bị cùm, ăn ở, ngủ hay vệ sinh đều chỉ trong một không gian chật hẹp tăm tối. Hầu hết những ai khi bị nhốt vào đây một thời gian sau sẽ bị phù nề, ghẻ lở do thiếu vệ sinh và ánh nắng mặt trời. Bao quanh nhà tù là bức tường bằng đá, cốt thép được gia cố bởi hệ thống dây thép gai có dòng điện cao thế chạy qua. Bốn góc là những tháp canh có khả năng quan sát nhất cử nhất động toàn bộ trại giam. Riêng hệ thống cửa sắt và khóa được mang từ Pháp sang. Các phòng giam, phòng tối, xà lim chật chội, thiếu không khí cùng những tên cai ngục khét tiếng, có thâm niên cai quản nhà tù sẵn sàng đàn áp, thậm chí cướp đi sinh mạng của tù nhân. Ngày 18/6/1997, Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch công nhận nhà tù hoả lò là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Tạp chí người Hà Nội

Hà Nội 2860 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Thành Cổ Loa

Di tích thành Cổ Loa thuộc địa phận huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Tại địa điểm này đã có dấu tích của văn hóa Sơn Vi, thuộc hậu kỳ đồ đá cũ, cách đây khoảng 20.000 năm đến 11.000 năm. Khoảng 4.000 năm trước, những cư dân thuộc văn hóa Phùng Nguyên cũng đã định cư trên mảnh đất này. Vào khoảng năm 208 trước Công nguyên, sau khi thống nhất hai bộ tộc Âu Việt và Lạc Việt, lập nên nhà nước Âu Lạc, An Dương Vương đã chọn vùng đất này để lập kinh đô, xây thành Cổ Loa (thành Ốc, Tư Long thành, Loa thành)… Hiện nay, di tích có phạm vi quy hoạch bảo tồn là 830 ha. Theo thống kê, trong khu vực Cổ Loa hiện có khoảng 60 di tích (trong đó có 07 di tích cấp quốc gia), bao gồm các loại hình: di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích lịch sử, cách mạng, di chỉ khảo cổ học. Di tích Cổ Loa cũng là địa điểm khảo cổ học có giá trị nổi bật, gắn với các giai đoạn văn hóa khảo cổ của người Việt, như văn hóa Sơn Vi, văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun, mà đỉnh cao là Văn hóa Đông Sơn, với nhiều di chỉ khảo cổ tiêu biểu: Đồng Vông, Bãi Mèn, Đình Chiền, Đình Tràng, Mả Tre, Thành Nội, Thành Ngoại, Thành Trung, Xuân Kiều, xóm Nhồi, đền Thượng, Tiên Hội, Đường Mây, Cầu Vực... Tại khu vực này, các nhà khảo cổ đã phát hiện được hàng vạn công cụ lao động, nhạc khí và vũ khí bằng đồng, góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề về thời kỳ An Dương Vương và lịch sử vùng đất này. Thành Cổ Loa: có diện tích gần 46ha, gồm 3 vòng thành (thành Nội, thành Trung, thành Ngoại) khép kín, đắp bằng đất, với tổng chiều dài là 15,820km. Thành được đắp dựa theo địa hình tự nhiên - nối những gò, đống và những dải đất cao dọc theo sông; bao quanh thành là các hào nước thông với sông Hoàng, trên mặt thành có các ụ đất nhô ra ngoài, gọi là “hỏa hồi”; vòng thành có chỗ xẻ làm cửa, phía trên xây miếu thờ thần. Đền Thượng (đền thờ An Dương Vương): dựng trên khu đất rộng 19.138,6m2. Tại vị trí lối lên cửa giữa của đền đặt đôi rồng đá, mang phong cách nghệ thuật thời Lê mạt. Trong đền còn lưu giữ được 5 tấm bia đá và 53 hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc sắc. Đình Cổ Loa (Ngự Triều Di Quy): có bố cục mặt bằng nền hình chữ “Đinh”, gồm đại đình và hậu cung. Đại đình gồm 5 gian, 2 chái, kết cấu khung gỗ, mái lợp ngói mũi hài, với 4 góc đao cong vút. Các bộ vì nóc được kết cấu theo kiểu “giá chiêng, chồng rường”, với 6 hàng chân cột. Hậu cung nối liền với đại đình qua bộ cửa bức bàn phía dưới và đấu mái ở phía trên. Các đề tài trang trí trên kiến trúc này mang phong cách nghệ thuật của thế kỷ XVIII. Đặc biệt, trong đình còn lưu giữ được 17 hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học khá tiêu biểu. Am Mỵ Châu (am Bà Chúa hay đền thờ Mỵ Châu): toạ lạc trên khu vực rộng 925,4m2. Mặt bằng kiến trúc được bố cục theo dạng “tiền Nhất, hậu Đinh”, gồm các tòa tiền tế, trung đường và hậu cung. Chùa Cổ Loa (Bảo Sơn tự): được khởi dựng vào khoảng đầu thế kỷ XVII, bố cục mặt bằng nền theo dạng “nội Công, ngoại Quốc”, gồm các hạng mục: tiền đường, thiêu hương, thượng điện, hậu cung, gác chuông, tháp mộ, cổng hậu, nhà Tổ, nhà ni, nhà khách. Đặc biệt, trong chùa còn lưu giữ được 132 hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc sắc. Chùa Mạch Tràng (Quang Linh tự): được dựng vào thời Hậu Lê, trên diện tích rộng 4.922,4m2. Chùa quay hướng Nam, bao gồm các hạng mục: Tam bảo, tiền đường, thượng điện, nhà Mẫu, giải vũ, hành lang... Đình Mạch Tràng: tọa lạc trên một khu đất cao, có diện tích 6.198,4m2, gồm các hạng mục tiền tế, đại đình và hậu cung. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học tiêu biểu của di tích, ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ Thành Cổ Loa là Di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Hà Nội 2795 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đình Khuyến Lương

Đình Khuyến Lương trước thuộc xã Trần Phú, huyện Thanh Trì, nay là phường Trần Phú, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Khuyến Lương là một ngôi làng cổ rất nổi tiếng ở phía đông nam của kinh thành Thăng Long. Cuối thời Trần, Khuyến Lương nằm trong thái ấp của danh thần Trần Khát Chân, một gương mặt lịch sử lớn của vương triều Trần, người có công đập tan quân Chiêm Thành, giết vua Chế Bồng Nga sang xâm phạm bờ cõi nước ta. Vẻ đẹp của vùng đất mà Thượng tướng Trần Khát Chân chọn xây thành điền trang thái ấp đã được Nguyễn Trãi ca ngợi: Vùng ấy, đất thì đỏ chín cùng sắc xanh đen, ruộng thì vào hạng thượng thượng, hơn nữa dòng sông Kim Ngưu như một dải lụa vắt ngang đã là một món quà của thiên nhiên tặng cho vùng này. Năm 1399, tướng Trần Khát Chân bị sát hại sau khi kế hoạch giết Hồ Quý Ly không thành, thái ấp cũng bị tàn phá, tiêu vong. Trung thần Trần Khát Chân tuy chỉ gắn bó với vùng đất này trong một thời gian ngắn, song công đức và sự nghiệp của ông đã in đậm dấu ấn trong đời sống văn hoá của nhân dân trong vùng. Để tỏ lòng ngưỡng mộ và biết ơn ông, các làng trong khu vực thái ấp xưa, trong đó có làng Khuyến Lương đều thờ Trần Khát Chân làm Thần hoàng làng bảo vệ cho cuộc sống cộng đồng. Nằm trong một vùng quê giàu truyền thống lịch sử, di tích đình Khuyến Lương có bề dày tồn tại lâu đời theo thời gian. Đình đã qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa. Lúc sinh thời, Trần Khát Chân đã xây dựng nên điền trang thái ấp ở khu vực này. Trong quy hoạch điền trang, Khuyến Lương được quy hoạch thành vùng trồng dâu nuôi tằm, nghề cổ truyền đó gắn bó với dân làng mãi về sau. Hình ảnh và sự nghiệp của danh tướng họ Trần luôn in đậm trong hồi ức, tâm linh của các thế hệ dân làng Khuyến Lương. Theo thời gian, đình Khuyến Lương từng là cơ sở cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tháng 6 năm 1945, tại đình Khuyến Lương đã thành lập 2 lớp học truyền bá quốc ngữ. Ngày 19/8/1945, Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội, 2 lớp học này là nhân tố nòng cốt lật đổ chính quyền cũ, lập ra chính quyền mới của dân và lập ra Đội tự vệ, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ để tham gia chiến đấu bảo vệ chính quyền. Đến tháng 6 năm 1946, tại ngôi đình đã mở lớp đào tạo cán bộ đầu tiên của Công đoàn Việt Nam. Năm 1947, nhân dân thôn Khuyến Lương xây dựng cơ sở tại vùng địch, đình là nơi vận động nhân dân mua công phiếu công trái kháng chiến, vận động nhân dân che giấu cán bộ, bộ đội và dân quân du kích. Từ năm 1948 đến năm 1949, phong trào cách mạng rất mạnh, địch luôn khủng bố cướp bóc của dân, địch đưa Tây đóng bốt tại nhà thờ Khuyến Lương nhằm đàn áp phong trào cách mạng tại đây. Tại cổng đình ngày 21/10/1949, chúng bắn chết đồng chí Nguyễn Văn Kháng là du kích quân. Đến tháng 6/1950, chúng đóng bốt ngay tại đầu làng, vây ráp, lùng sục chống phá phong trào cách mạng của địa phương. Mặc dù vậy, nhân dân vẫn đoàn kết một lòng chiến đấu, bảo vệ cán bộ, bảo vệ quê hương. Năm 1961, làm tốt chăn nuôi, trở thành lá cờ đầu của phong trào nông nghiệp Thủ đô, nên nhân dân Khuyến Lương đã vinh dự được đón Bác Hồ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Hoàng thân Xuphanuvông và Bác Tôn Đức Thắng về thăm. Năm 1964, khi Mỹ leo thang đánh chiếm miền Bắc, đình Khuyến Lương là nơi chứa hàng quân dụng (xoong, chảo, thực phẩm khô và thuốc men) phục vụ chiến đấu. Đặc biệt, đình là nơi chứa đạn pháo cao xạ của hai trận địa pháo và 1 trận địa tên lửa để bảo vệ cầu phà sông Hồng. Đình Khuyến Lương đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật năm 1996. Nguồn: Tạp chí người Hà Nội

Hà Nội 2480 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Kim Liên

Đình và đền Kim Liên (hay còn gọi là đền Cao Sơn) là trấn phía nam trong tứ trấn của kinh thành Thăng Long xưa, gồm bốn ngôi đền: Đền Quán Thánh (trấn giữ phía bắc kinh thành); Đền Bạch Mã (trấn giữ phía đông kinh thành); Đền Voi Phục (trấn giữ phía tây kinh thành); Đền Kim Liên (trấn giữ phía nam kinh thành). So với ba ngôi đền kia thì đền Kim Liên được xây dựng muộn hơn (khoảng thế kỷ 16 - 17). Đền Kim Liên thờ Cao Sơn Đại Vương. Tại di tích có tấm bia đá với bài tựa "Cao Sơn đại vương thần từ bi minh" do sử thần Lê Tung soạn năm 1510, nói về công lao của thần Cao Sơn. Nội dung cho biết: Khi vua Lê Tương Dực cầm quân dẹp loạn, khôi phục cơ nghiệp của vua Lê Thái Tổ, có ba vị đại thần là Nguyễn Bá Lân, Nguyễn Hoàng Dụ và Nguyễn Văn Lữ cùng đem quân đi chinh phạt. Đến địa phận huyện Phụng Hoá (nay là di tích đền Láo, xã Văn Phương, Nho Quan, tỉnh Ninh Bình) thì thấy cảnh núi rừng rậm rạp có ngôi đền cổ ghi bốn chữ "Cao Sơn đại vương". Rất lấy làm lạ, vua quan bèn khẩn cầu thần phù trợ. Quả nhiên sau mười ngày đã thành công. Vì thế, vua Lê Tương Dực cho xây dựng đền thờ thần Cao Sơn ở Phụng Hóa. Sau vì nhớ ơn thần đã ngầm giúp dẹp loạn ở Đông Đô, năm 1509, vua cho xây dựng lại đền thờ to đẹp hơn ở phường Kim Hoa gần Thăng Long thời bấy giờ (nay là Kim Liên). Sau này, dân làng Kim Liên đã xây thêm cổng tam quan ở phía trước cổng đền, ngay sát đầm Kim Liên và bổ sung thêm một số kiến trúc mới, tạo thành đình Kim Liên. Ngoài Cao Sơn Đại Vương, trong đền và đình Kim Liên còn thờ Tam Phủ, thờ Mẫu, và thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đình được xây dựng trên một gò đất cao ở phía đông đầm Kim Liên. Cổng đình và cửa chính điện đều hướng về phía tây, trông ra đầm Kim Liên (đầm này nay không còn do bị lấp đi để làm đường vành đai 1). Kiến trúc của đình bao gồm hai phần: phần phía trước gò có một cổng trụ biểu, hai dãy giải vũ hai bên sân gạch rộng và phần kiến trúc chính của di tích nằm trên gò đất cao. Đi hết khoảng sân trên thì qua chín bậc gạch cao được xây bằng những viên gạch vồ có kích thước lớn thời Lê Trung Hưng nối hai bộ phận kiến trúc trên. Đình chính gồm Nghi môn, Đại bái và Cung cấm. Nghi môn là một nếp nhà ba gian, xây kiểu tường hồi bít đốc. Trên các bộ phận kiến trúc các họa tiết trang trí được thể hiện sinh động, công phu mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Nhà Đại bái gồm 5 gian mới được thành phố tôn tạo trong dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long-Hà Nội, với kiểu dáng kiến trúc truyền thống. Hậu cung là một nếp nhà ba gian dọc, gian cuối cùng là nơi thờ Cao Sơn Đại Vương và hai nữ thần phối hưởng (Tôn nữ Động Hồ Trưng Vương (công chúa con gái vua Lê) và Huệ Minh công chúa). Đình được sửa sang, tu bổ năm 2009. Di vật quan trọng tại đình Kim Liên ngoài tấm bia đá "Cao sơn Đại Vương thần từ bi minh" còn có 39 đạo sắc phong cho thần Cao Sơn Đại Vương, trong đó có 26 đạo thời Lê Trung Hưng, 13 đạo thời nhà Nguyễn, sớm nhất trong số đó là sắc phong có niên đại Vĩnh Tộ năm thứ hai (1620). Hội đền và đình Kim Liên được tổ chức vào ngày 16 tháng 3 âm lịch hàng năm. Vào dịp lễ hội, không khí ở đây rất tưng bừng. Trong lễ hội đình và đền Kim Liên còn có nhiều trò chơi truyền thống như: chọi chim, cờ người, bóng bàn, thi đấu võ thuật thu hút đông đảo nhân dân trong và ngoài vùng tham gia. Năm 1990 đình và đền Kim Liên đã được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Sở du lịch Hà Nội

Hà Nội 2493 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Bạch Mã

Đền Bạch Mã ở phường Hà Khẩu, tổng Hữu Túc, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, nay ở số 76 phố Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đền thờ thần Long Đỗ, hiệu Quảng Lợi Bạch Mã đại vương (thần Long Đỗ tức thần núi Long Đỗ cũng gọi là núi Nùng, nơi tiếp nhận khí thiêng của sông núi kinh thành Thăng Long). Tương truyền thời nước ta bị nhà Đường phương Bắc đô hộ, Cao Biền sai quân lính đắp thành Đại La, bỗng thấy trời đất tối tăm mù mịt, một vị thần cưỡi con rồng đỏ, ngồi trên đám mây ngũ sắc, bay lượn trên mặt thành. Cao Biền sợ hãi, định dùng bùa phép trấn yểm. Đêm ấy, Biền chiêm bao thấy vị thần đó hiện lên bảo rằng: Ta là tinh anh đất Long Đỗ, nghe nói ông sai đắp thành, cớ sao lại định dùng bùa phép trấn yểm. Biền tỉnh dậy sợ hãi nhưng vẫn đem đồng và sắt chôn xuống các lỗ long mạch để trấn yểm. Tức thì đêm đó mưa to gió lớn sấm sét nổ đùng đùng. Sáng dậy, Cao Biền đi xem các nơi đã trấn yểm, thấy đồng và sắt đã bị đánh nát vụn. Cao Biền thấy đó là vị thần thiêng của nước Nam, Biền không làm gì nổi, bèn sai lập đền thờ để xin được phù hộ. Lại tương truyền khi Lý Công Uẩn dời đô ra thành Đại La, cho xây thành nhưng trầy trật mãi không xong. Vua sai người đến đền Bạch Mã cầu thần thì thấy một con ngựa trắng từ trong đền đi ra một vòng từ đông sang tây, đi đến đâu để lại dấu vết đến đó, rồi trở lại đền và biến mất. Vua sai quân lính theo vết chân ngựa mà đắp thành, quả nhiên xây được thành. Vua Lý Thái Tổ bèn cho sửa lại đền thờ, phong vị thần Long Đỗ là Quảng Lợi Bạch Mã tối linh thượng đẳng thần. Vén tấm màn thần linh, thấy vua quan nhà Lý khi dời đô ra Đại La đã quy hoạch kinh thành phía đông là đền Bạch Mã, phía tây là đền Voi Phục, phía bắc là đền Trấn Võ, phía nam là đền Cao Sơn (đình Kim Liên ngày nay). Đó là “Thăng Long tứ trấn”. Người xưa đã thần thánh hoá đất kinh thành và việc làm của vua, đất thánh do thần thánh quy định với “đường tròn ma thuật” vốn là tín ngưỡng từ thời bộ lạc lưu lại. Đền đã được sửa chữa nhiều lần. Hệ thống bia đá hiện còn tại di tích cho biết đền được mở rộng vào niên hiệu Chính Hoà thời Lê (1680 - 1705). Cuối thế kỷ XIX được tôn thêm nền cũ và mở rộng thêm, năm 1781, chúa Trịnh chuẩn y cho 3 giáp Mật Thái, Bắc Thượng, Bắc Hạ, phường Hà Khẩu xung quanh đền Bạch Mã được làm dân “tạo lệ” (sắm lễ vật tế lễ, không phải sưu sai, tạp dịch khác). Năm 1829, lại sửa chữa thêm tráng lệ. Năm 1839 dựng thêm văn chỉ ở bên trái đền, dựng phương đình (đình hình vuông) để làm nơi cúng lễ các tuần tiết. Khuôn viên đền đã bị thu hẹp. Nhân dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội (2000), di tích được tu bổ lớn trên cơ sở giữ nguyên hiện trạng kiến trúc cũ. Đền quay mặt về hướng nam, hiện nay gồm Tam quan, Phương đình, Đại bái, Thiêu hương, Cung cấm và Nhà hội đồng ở phía sau. Phương đình mới được xây dựng năm 1839 dưới thời Nguyễn nên mang đậm phong cách kiến trúc thời nay. Những con nghê trên xà ngang và những lồng đèn hình hoa sen trên đầu 4 xà nách gần gũi với kiến trúc phương đình ở Hội An. Từ phương đình vào đại bái có mái vòm hình “vỏ cua”. “Vỏ cua” nối liền các nhà, tạo ra một không gian rộng rãi. Đại bái có bộ khung gỗ bốn hàng chân, có bộ vì kèo được kết cấu theo lối “chồng rường, giá chiêng”, mái phân theo kiểu “thượng tam, hạ tứ”. Trên các cốn gỗ, xà nách, các vì chồng rường, có nhiều mảng chạm khắc. Đề tài trang trí là mây lửa, hoa lá. Nối đại bái với nhà thiêu hương là mái vòm “vỏ cua” hình bán nguyệt, trang trí hoa lá. Trong Cung cấm có một sàn gỗ cao, ván bưng ba mặt để làm nơi toạ lạc của thần Bạch Mã. Tượng thần Bạch Mã (Long Đỗ) ngồi trong khám, luôn được bưng kín. Cả tượng và khám là sản phẩm dưới thời Nguyễn. Đền còn lưu giữ được 15 bia. Nội dung các bia đề cập đến sự tích của đền và thần, nghi lễ cúng thần, các lần trùng tu tôn tạo. Đền có các đồ thờ như đồ lễ bộ gồm các vũ khí thời cổ như kích, đao, thương, câu liêm... được sơn son thếp vàng, chạm khắc tinh xảo. Trong đền, ngoài các lư hương đồng, bình đồng, lượng người, lại có cả tượng Phật. Chi tiết này thể hiện quan niệm của dân gian là “tam giáo đồng tôn”. Đền còn có một đôi hạc chân cao, cổ cao và đôi phỗng trong tư thế đứng trang nghiêm. Trong các di tích thuộc “Tứ trấn”, đền Bạch Mã trấn phía đông, được xây dựng sớm hơn cả. Tồn tại trong lòng phố cổ với nhiều màu sắc, yếu tố nghệ thuật kiến trúc cùng một hệ truyền thuyết đầy tính lịch sử và triết học về vị thần được thờ, đền Bạch Mã mãi mãi giữ nguyên giá trị về một mốc giới thiêng của kinh thành Thăng Long ngàn năm văn hiến. Đền đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật năm 1986. Nguồn: Tạp chí người Hà Nội

Hà Nội 2508 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Quán Thánh

Đền Quán Thánh, tên chữ là Trấn Vũ Quán, có từ đời Lý Thái Tổ (1010 - 1028), thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, là một trong bốn vị thần được lập đền thờ để trấn giữ bốn cửa ngõ thành Thăng Long khi xưa (Thăng Long tứ trấn). Đền Quán Thánh trấn phía bắc (đền Bạch Mã trấn phía đông, đền Voi Phục trấn phía tây và đền Kim Liên trấn phía nam). Đền Quán Thánh thuộc phường Quán Thánh- Ba Đình - Hà Nội. Đền tọa lạc ở vị trí góc đường Thanh Niên và phố Quán Thánh nhìn thẳng ra Hồ Tây. Tại ngôi đền này hiện đang lưu giữ và thờ phụng bảo vật quốc gia - tượng quan Trấn Vũ bằng đồng đen, nặng 4 tấn. Huyền Thiên Trấn Vũ, là vị thần nhiều lần giúp dân nước Việt chống ngoại xâm, giúp An Dương Vương trừ ma quái khi xây thành Cổ Loa để nhớ công ơn thần, nhà Vua đã cho lập đền thờ. Theo thuyết của Đạo giáo, Huyền Thiên là một vị Thần luôn được thờ trấn ải Hướng Bắc. Tượng Huyền Thiên trước bằng gỗ, đến năm Vĩnh Trị thứ 2 thời vua Lê Hy Tông(1677) mới được đúc bằng đồng cao 3,96m, nặng 4 tấn, chu vi bệ đã 8m. Tượng ngồi oai nghiêm, mặt vuông, mắt nhìn thẳng , râu dài, đầu không đội mũ, tóc xõa ra đằng sau, mình mặc áo đạo sỹ mầu đen đi chân lên lưng rùa, thân gươm có rắn quấn. Rắn và rùa tượng trưng cho sức mạnh và sự trường sinh của Thần. Tượng đồng Huyền Thiên đồ sộ, uy nghiêm, hùng dũng được thờ ở Phía Bắc Thành Thăng Long mang một ý nghĩa lớn lao đối với tự vệ Quốc gia, biểu thị tinh thần quật cường của dân tộc qua các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm nhiều thế kỷ trước. Về kiến trúc, Đền Quán Thánh đã qua rất nhiều lần tu sửa và kiểu kiến trúc như hiện nay phần lớn là từ thời Nguyễn thế kỷ 19, gồm: tam quan, sân bái, tiền đế, trung đế và hậu cung. Trên cổng giữa của tam quan có đắp nổi tượng thần Rahu trong thần thoại Ấn Độ đã nuốt mặt trăng, mặt trời gây nên hiện tượng nguyệt thực, nhật thực. Đây là sự hội nhập tín ngưỡng của người Việt Nam. Ngoài ra, các chi tiết kiến trúc bằng gỗ tại đền được chạm khắc rất tinh xảo, mang phong cách nghệ thuật thời Lê. Vào thế kỷ 19, vua Minh Mạng đổi tên thành Chân Vũ quán (tên này được tạc bằng chữ Hán trên nóc cổng tam quan. Bức hoành trong bái đường vẫn để tên cũ là Trấn Vũ Quán). Với những giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật tiêu biểu mang tính thời đại và tầm vóc Quốc gia, dân tộc. Tượng quan Trấn Vũ tại đền Quán Thánh đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận Bảo vật Quốc gia ngày 22/12/2016. năm 2022 đền Quán Thánh được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt . Hằng năm, lễ hội đền Quán Thánh diễn ra vào ngày 3 tháng 3 âm lịch. Nguồn: Sở du lịch Hà Nội

Hà Nội 2398 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa