Nằm cách trung tâm TP Bắc Giang 20km về phía Đông Bắc, xã Tiên Lục, huyện Lạng Giang nổi tiếng về những cụm di tích văn hóa lịch sử. Đây là ngôi chùa cổ, được thành lập từ năm 1723 dưới thời vua Lê Cảnh Hưng, hướng chính Nam, được xây dựng bởi một vị sư có quê gốc ở Tiên Lục, Lạng Giang- ngài chính là Tổ sư đang ngự trên Tam bảo. Chùa có 35 gian, thiết kế theo lối kiến trúc “nội Công ngoại Quốc”. Toàn bộ phần tiền đường, hai dãy hành lang và gác chuông nối lại thành hình chữ Quốc, phần còn lại là tòa thiêu hương nối với thượng điện thành hình chữ Công. Trong chùa, hệ thống tượng phật được sắp xếp thứ tự từ thượng điện đến hai dãy hành lang và bên dưới gác chuông lớn, tất cả có khoảng 90 pho tượng cổ quý giá. Nếu đứng giữa chùa quan sát, chiêm ngưỡng các pho tượng cổ du khách sẽ không khỏi ngạc nhiên và thán phục trước nghệ thuật tạc tượng hết sức điêu luyện, tinh xảo của các tiền nhân. Với những giá trị quý giá ấy, năm 1989, chùa Phúc Quang được Bộ Văn hóa, Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Tuy nhiên, người dân xã Tiên Lục vẫn không ngừng thắc mắc lý do vì sao ngôi chùa có kiến trúc đẹp, uy nghiêm, cảnh quan thanh bình như thế mà vắng chủ, trước sau đều cửa đóng then cài. Ông Nguyễn Đình Thuấn, người trông nom chùa lâu nay cho biết, có vị sư Thích Huệ Cửu, tên khai sinh là Nguyễn Thành Chung (quê ở Ninh Thuận), về ở lâu nhất cũng không quá ba năm (trụ trì từ năm 2010 đến 2013). Dù không lý giải được nhưng người dân đều tin tưởng vào sự linh thiêng của ngôi chùa. Bằng chứng là suốt những năm tháng chiến tranh, mặc dù khu vực xung quanh bị bom đạn oanh tạc đến xơ xác, riêng chùa Phúc Quang và xã Tiên Lục vẫn được bảo vệ an toàn. Họ cho rằng chính ngôi chùa hơn 300 năm tuổi đã trấn giữ vùng đất này, giúp dân an cư lạc nghiệp. Cuối năm 2014, dự án Tu bổ, tôn tạo di tích chùa Phúc Quang chính thức được khởi công, gồm có 04 hạng mục chính. Sáng ngày 29/7/2016, đã bàn giao 02 hạng mục hoàn thiện theo kế hoạch, bao gồm Chùa chính (Tam bảo, Gác chuông, hai dãy Hành lang), diện tích 884,5 m2 và Nhà Thảo xá, diện tích 278,3 m2. Tổng giá trị quyết toán từ nguồn kinh phí mục tiêu quốc gia và ngân sách địa phương, ước thực hiện khoảng 23,5 tỷ đồng. NGUỒN BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY BẮC GIANG
Bắc Ninh 1972 lượt xem
Đình Sàn thờ thánh Cao Sơn - Quý Minh và Minh Giang Đô thống, đều là những vị tướng của Vua Hùng, đã có công đánh giặc giữ nước, trừ tai diệt họa và đã được các triều đại phong kiến Lê - Nguyễn ban sắc phong thần. Hiện nay, trong hai hòm sắc của đình Sàn còn lưu giữ được nhiều đạo sắc phong với các niên hiệu như: Tự Đức lục niên; Tự Đức thập niên; Tự Đức tam thập Tam niên; Khải Định cửu niên; Duy Tân tam niên… Qua cổng đình, bên phải là chùa Sàn, đi thẳng vào là Tòa Đại đình 3 gian 2 dĩ, 2 chái bề thế, uy nghiêm với 4 đầu đao cong vút. Bờ nóc đắp "Lưỡng, long chầu nguyệt", hai đầu có Kìm, bờ dải đắp nổi nghê chầu, phượng múa, sinh động vô cùng. Tất cả bờ nóc, bờ dải đều gắn hoa chanh, chạy suốt, tôn thêm vẻ đẹp uy nghiêm, to lớn, vượt trội hẳn lên, nhưng vẫn nhẹ nhàng, thanh thoát bởi sự kết hợp hài hòa đến tinh xảo các đường ngang, nét thẳng với các đường cong vút lên mềm mại, sinh động. Đình Sàn làm kiểu chữ Công (I) gồm ba gian dải muống nối liền với ba gian hậu cung và ba gian hậu cung cũng có đao chầu kẻ góc rất đẹp, khiến cho toàn bộ ngôi đình đồ sộ này vượt trội hơn hẳn các ngôi đình khác ở Lục Nam. Với kiểu kết cấu: Thượng con chồng, giá chiêng, hạ con chồng- cốn, kẻ trường chắc khỏe, đẹp. Đặc biệt, đây là đình thời Lê còn khá nguyên vẹn, nhưng khung cột cái cao vượt hẳn lên và cột quân thấp hẳn xuống tạo cho lòng đình cao rộng mà rất thoáng đạt. Với kết cấu "Tứ hàng chân" này của hệ thống khung cột đã tạo cho mái đình có độ dốc nước lớn, mái xoải rộng làm cho ngôi đình vừa bền, chắc, vững vàng, đồ sộ, bên trong lại cao thoáng và rộng rãi mà vẫn nhẹ nhàng, thanh thoát. Bức cửa võng "cửu trùng" lại là biểu trưng xuất sắc nhất của nghệ thuật chạm khắc, sơn son thếp vàng thời Nguyễn. Với 4 chữ lồng "Thánh cung vạn tuế". Trên gian giữa và suốt mái trước cửa đình đều là thiết trần, lòng giếng sơn son chạm nổi "Tứ linh", "Tứ quý", "Long Mã", "Lạc thư" và hoa văn kỷ hà kéo suốt qua dải muống vào đến hậu cung. Khám thờ trong hậu cung sáng lòa, rực rỡ bởi 2 long đình sơn son thếp vàng, 2 ngai thờ, trong có hai pho tượng thần lộng lẫy, bài vị sơn thếp thời Lê cùng kiệu bát cống và rất nhiều đồ thờ khác… Năm 1994, đình Sàn được Nhà nước công nhận là Di tích Lịch sử-Văn hoá kiến Trúc nghệ thuật cấp quốc gia. NGUỒN SỞ SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH
Bắc Ninh 1839 lượt xem
Chùa Bảo An (Minh Kính tự), thuộc xã Cương Sơn, huyện Lục Nam (Bắc Giang). Do nằm trong hệ thống di tích Tây Yên Tử, có vị trí gần bến sông Lục Nam, kề bên trục đường 293 nên chùa là điểm dừng chân lý tưởng cho du khách trong hành trình du lịch về miền đất Phật Yên Tử. Chùa Bảo An được xây dựng từ thời Lê, năm 1710 đã được tu sửa. Trải qua hơn ba trăm năm, công trình đã qua nhiều lần sửa chữa, tôn tạo. Và hiện nay cơ bản mang nét kiến trúc thời Nguyễn thế kỷ XIX, một số pho tượng Phật, đồ thờ mang phong cách thời Lê thế kỷ XVIII. Là một trong những ngôi chùa cổ thuộc thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, chùa Bảo An thờ Tam Tổ Trúc Lâm: Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang Sử sách chép rằng, sau khi rời bỏ ngai vàng, vua Trần Nhân Tông lập ra thiền phái Trúc Lâm. Khi đó, Trần Nhân Tông đã chủ trương chuyển đạo Phật về gần dân, với quan niệm “Phật tức Tâm - Tâm tức Phật”. Ngoài những mùa kết hạ, vua Trần Nhân Tông còn về nhiều nơi để truyền đạo và đi vân du hoàng đạo. Cùng với việc khẳng định vị trí vai trò của Thiền phái Trúc Lâm, thời Trần và các giai đoạn sau này trên các đỉnh núi cao thuộc địa phận Bắc Giang đã xuất hiện nhiều ngôi chùa cổ như: Am Vãi, Bình Long, Hồ Bấc, Mã Yên… Chùa Bảo An tuy xuất hiện muộn hơn (thời Lê) nhưng lại là sự tiếp nối liên tục cho sự hưng thịnh và phát triển của Thiền phái Trúc Lâm ở Bắc Giang. Là chùa cổ có cảnh đẹp, phía trước chùa, hai ngọn tháp gạch cổ, nơi yên nghỉ của sư tổ được tán lá của hai cây đại cổ thụ tỏa bóng mát. Vườn chùa phủ màu xanh của lá, mùi hương hoa cỏ toả ngát bốn mùa. Nhiều cây cổ thụ trong khuôn viên chùa là minh chứng cho sự tồn tại và phát triển lâu đời của ngôi cổ tự này. Chùa Bảo An hiện có các hạng mục công trình: Tòa Tam bảo, nhà Tổ, nhà Mẫu, nhà khách và 2 ngọn tháp gạch cổ, tất cả tọa lạc trên khuôn viên rộng 10.700m2, quanh chùa được bao bọc bởi tường đá rêu phong cổ kính. Toà Tiền đường và Phật điện có kết cấu liên hoàn theo kiểu chữ đinh. Tiền đường 5 gian xây bít đốc, kết cấu kiến trúc vì mái gỗ lim, liên kết theo kiểu thượng con chồng, hạ kẻ đón, các cấu kiện chạm khắc hình hoa lá mang phong cách thời Nguyễn thế kỷ XIX. Toà Thượng điện 3 gian, khung liên kết gỗ đã ngả màu thời gian, trong bài trí đầy đủ hệ thống tượng Phật. Nhà Tổ phía sau tòa Tam bảo, đây là nơi bài trí tượng thờ Tam Tổ Trúc Lâm. Cả ba pho tượng được tạo tác đẹp quy chuẩn, tượng Trần Nhân Tông ngồi tọa thiền trên bệ gỗ ở giữa, hai gối mở rộng, tượng được sơn thếp phấn hồng. Tượng Pháp Loa ngồi trợ thủ bên trái, tượng Huyền Quang ngồi bên phải. Ngoài hệ thống tượng Phật đẹp, kiến trúc cổ kính, chùa Bảo An còn lưu giữ được một số đồ thờ và di sản Hán- Nôm đã tồn tại hàng trăm năm như: Lư hương, chuông đồng “Minh Kính tự chung”, bia đá “Hậu Phật bi ký”, tháp cổ…. Hằng năm, hội chùa được tổ chức ngày 18, 19, 20 tháng 3 Âm lịch với nhiều nghi lễ và trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Cùng với nhiều điểm di tích khác bên sườn Tây Yên Tử ở Bắc Giang, chùa Bảo An sẽ là điểm đến hấp dẫn cho du khách gần xa. NGUỒN: TRUNG TÂM THÔNG TIN, VĂN PHÒNG UBND TỈNH BẮC GIANG
Bắc Ninh 1796 lượt xem
Đình Thân là nơi thờ phụng tôn nghiêm những danh thần có công lao to lớn trong công cuộc chống giặc ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc; thời kỳ đầu nơi đây thờ Thành Hoàng là Đức Thánh Cao Sơn và Quý Minh Đại Vương là những vị tướng tài thời Hùng Vương, biểu tượng cao đẹp về lòng yêu nước, tinh thần chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Thông qua nội dung các tư liệu còn lưu giữ ở đây, như: sự tích, sắc phong, câu đối, văn cúng tế… đã khẳng định được nơi đây thờ các vị tướng thời Hùng Duệ Vương và các công chúa của nhà Lý, xếp theo trình tự thời gian thì ở Đình Thân thờ các vị như sau: * Thời Hùng Duệ Vương có các vị: - Cao Sơn Đại Vương thượng đẳng Thần - Quý Minh Đại Vương thượng đẳng Thần - Phương Dung- Nữ Thần Âm Phù * Thời Lý có các vị: - Bình Dương Công Chúa - Thiên Thành Công Chúa - Thiên Cực Công Chúa Sang thời kỳ lịch sử cận hiện đại kể từ khi thực dân Pháp xâm lược, đình Thân đã là căn cứ của quân dân ta, nơi cơ sở hoạt động của tổ chức cách mạng và kháng chiến. Nơi đây là điểm căn cứ đi về hoạt động của các chiến sỹ cách mạng trong thời kỳ tiền khởi nghĩa và sau này là những năm tháng kháng chiến chống Nhật, Pháp. Cũng chính nơi đây tháng 3/1943 Đảng Cộng sản ở Lục Nam đã cử đồng chí Kiên về xây dựng cơ sở của đảng và giác ngộ những người con ưu tú của quê hương đi theo cách mạng đó là các ông (Ông Huyên, ông Tài, ông Tuy, ông Vượng, ông Thắng, ông Mốc, ông Mẫn, ông Cầm, ông Lưu...). Đồng thời cũng chính nơi đây ngày 25/7/1945 Đội du kích họp bàn và tổ chức nhân dân đánh đổ Nhật xây dựng ủy Ban cách mạng lâm thời. Thời kỳ chống Mỹ, Đình Thân là nơi tập trung đưa tiễn lớp lớp những người con quê hương lên đường đánh giặc cứu nước. Ngày 02/9/1969 khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời Huyện uỷ - UBND huyện Lục Nam đã lấy nơi đây là nơi tổ chức lễ truy điệu Bác rất trọng thể, trang nghiêm. Rất đông cán bộ, các tầng lớp nhân dân các dân tộc trong huyện đã về đây dự lễ truy điệu Bác. Thời kỳ sau năm 1975 giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước Đình Thân ngoài việc phục vụ văn hoá tín ngưỡng và sinh hoạt cộng đồng của làng Thân, Đình còn là nơi cấp uỷ, chính quyền thôn bàn bạc thống nhất phương thức sản xuất thâm canh tăng vụ, đặc biệt thời kỳ đổi mới Đình là nơi Ban chủ nhiệm Hợp tác xã Thanh xuân bàn đưa ra quyết sách thâm canh tăng vụ, nâng cao hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp; giai đoạn 1986-1992 hợp tác xã Thanh Xuân là lá cờ đầu trong sản xuất, kinh doanh giỏi của 04 huyện miền núi Tỉnh Hà Bắc, thành tích đó được Chủ tịch nước tặng Huân chương lao động Hạng ba năm 1991. Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, ngôi Đình vẫn giữ nguyên nét uy nghi cổ kính, độc đáo; Với những giá trị lịch sử văn hóa nghệ thuật nêu trên Đình Thân đã được xếp hạnh Di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia theo Quyết định số 502-QĐ/BT, ngày 28/04/1994 của Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch). Phát truyền thống dân tộc, cấp ủy chính quyền và nhân dân làng thân nay là tổ dân phố Thân Bình, Thân Phú, Thanh Tân, các công ty doanh nghiệp; các con em địa phương đang học tập và công tác trên mọi miền tổ Quốc hàng năm đã công đức, tôn tạo khu di tích ngày thêm khang trang, tố hảo. Nơi đây hàng năm cũng là nơi giáo dục truyền thống cho lớp lớp các thế hệ thanh, thiếu niên trên địa bàn. 2. Kiến trúc Đình Làng Thân còn là công trình kiến trúc văn hóa, nghệ thuật cổ thời Lê (thế kỷ XVII-XVIII) có giá trị độc đáo tiêu biểu về nghệ thuật. Hiện nay, đình có bố cục bình đồ hình chữ Đinh gồm tòa Tiền đình 03 gian 02 trái và tòa Hậu cung 2 gian. Giá trị về kiến trúc nghệ thuật chủ yếu được thể hiện ở tòa Tiền đình với quy mô kiến trúc đồ sộ, lối kẻ trường độc đáo tạo cho mái đình có độ dốc lớn, nghệ thuật chạm khắc tinh xảo trên khắp các đầu dư, đầu kẻ như chạm nổi, chạm lộng các đề tài hình lá lật, hình thú sinh động, hài hòa, các đường nét trạm trổ, đồ thờ thanh thoát tinh xảo đậm nét kiến trúc nghệ thuật thời Lê. Lịch sử xây dựng Đình Thân trên câu đầu Đình hiện còn rõ chữ khắc ghi rằng “Quý tỵ niên, nhị nguyệt, nhị thập, ngũ nhật cất nóc”. Nghĩa là Đình được khởi dựng ngày 25 tháng 02 năm Quý Tỵ (1713) dưới triều đại Lê Dụ Tông, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 8. Ngôi Đình có kiến trúc cổ độc đáo, tiêu biểu về nghệ thuật đến nay đã trên 300 năm tuổi, đặc biệt những đường nét chạm khắc được thể hiện ở các đầu dư mõm kẻ là đề tài tứ linh (Long, Ly, Quy, Phượng) hình vặn xoắn, mây cuộn phong phú làm cho ngôi Đình thêm linh thiêng và đậm nét nghệ thuật. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THỊ TRẤN ĐỒI NGÔ - HUYỆN LỤC NAM
Bắc Ninh 1996 lượt xem
Khu di tích lịch sử- văn hóa đình, chùa Thượng Lâm, thuộc thôn Thượng Lâm, xã Thanh Lâm, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang cách thành phố Bắc Giang 20km về phía Đông Bắc. Khu di tích lịch sử văn hóa đình, chùa thôn Thượng Lâm được xây dựng từ cuối triều Lê đầu triều Nguyễn, ở đời vua Lê Hiến Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 42 vào năm 1781 là nơi thờ cúng, tưởng niệm người anh hùng có công với dân, với nước. Vì rằng vào những năm 1516-1522 nghĩa quân do cha con Trần Cảo- Trần Cung lãnh đạo đã chiếm giữ một vùng rộng lớn từ phía Bắc Sông Cầu trở lên. Ngoài ý nghĩa lịch sử, khu di tích này còn có ý nghĩa về mặt kiến trúc nghệ thuật- có tác dụng giáo dục cho mọi thế hệ hôm nay và mai sau về truyền thống dựng nước và giữ nước của tổ tiên ông cha chúng ta. Khu di tích lịch sử Đình - Chùa thôn Thượng Lâm đã đón rước đạo sắc phong thần đầu tiên tôn thờ thần hoàng, đã có công giúp nước, trải qua nhiều triều đại cụm di tích đã được đón nhiều đạo sắc phong thần của các vua chúa nhà nguyễn, điều đó nói lên sự tôn kính phụng thờ, của nhân dân địa phương đối với các bậc công thần nghĩa sĩ, đã có công với nước với dân, Trong bài vị còn lưu giữ đến nay đã ghi (chính minh, an quốc, thái hoàng, đường hương, đại lễ, chi thần, vị tiền) cùng với chuông đồng, khánh đúc của long cốt tự , kiệu rồng, mũ thần, hia thần, tại đình làng vẫn còn lưu giữ đến nay đó là những di vật quý giá đã được bảo tồn qua nhiều thế kỷ đến nay vẫn dữ nguyên về lộng lẫy và trang nghiêm. Khu di tích gồm: 1) Đình: hướng nam thiết kế gồm 2 phần - Nhà tiền tế làm kết cấu bằng gỗ lim, lợp ngói mũi hài , làm theo kiểu chồng giường, có năm gian rộng 6,87 m, dài 13m. - Hậu cung đình gồm 1 gian 2 trái kết cấu kẻ trường, xà cộc, nguyên liệu làm bằng gỗ lim, ngói mũi hài tường xây gạch, dài 8,35m, rộng 6,10m. 2) Chùa Thượng Lâm (Long cốt tự) hướng nam gồm: Địa điểm cũ của chùa xưa kia là xây dựng ở trên núi Long Cốt tự, hướng phía Bắc. Đến năm 1940 chùa được rời về vị trí hiện nay. Vì lý do: để bảo vệ chùa. Địa điểm cũ hiện nay chỉ còn lại 3 tòa tháp. - Nhà tiền tế kết cấu kiểu chồng giường, dài 12,22m, rộng 7,65m. - Nhà thánh đường kết cấu kiểu giá chiêng, gỗ lim, ngói mũi hài, nền lát gạch vuông. Có chiều dài 7,5m, chiều rộng 5,91m. Trong khu di tích này hiện còn lưu giữ được nhiều tài liệu hiện vật quý hiếm ,có ý nghĩa nghiên cứu khoa học và giáo dục truyền thống trực tiếp cho nhiều thế hệ hôn nay và mai sau . Đó là các bức đại tự, câu đối, chuông, khánh, văn bia, hương án, đồ thờ cúng hệ thống tượng (gồm 21 pho tượng Phật là) hiện vật gốc thời Lê, thời Nguyễn có giá trị về mặt kinh tế cũng như mặt nghệ thuật vừa là tài liệu hiện vật phục vụ cho nghiên cứu khoa học và giáo dục truyền thống. Đó là những sưu tập đồ thờ quý hiếm thể hiện phong phú về loại hình, niên đại, chất liệu cầu thành. Khu di tích Đình – Đền – Chùa Thượng lâm là một trung tâm văn hoá tiêu biểu của xã Thanh Lâm nói riêng của tinh Bắc Giang nói chung. Nó có ý nghĩa là tư liệu rất quan trọng phản ánh sâu sắc về truyền thống yêu quê hương, đất nước và căm thù giặc sâu sắc của nhân dân ta. Đồng thời là nơi thờ phụng, tưởng niệm Trần Cảo – Trần Cung hai thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa nông dân đầu thế kỷ XVI chống lại áp bức, bóc lột, chèn ép, hà khắc của triều đình phong kiến Việt Nam thời kỳ hậu Lê. Điều đáng quý và trân trọng là những lần trùng tu, tu sửa đều do bàn tay khéo léo của những thợ mộc, thợ nề địa phương tạo lên công trình của làng của nước . Đó cũng là sự phản ánh về truyền thống nghề thủ công cổ truyền ở đây đã có từ lâu đời và ngày càng phát triển không ngừng làm đẹp cho làng cho xã Thanh Lâm thịnh vượng. 7. Hoạt động văn hóa và nghi lễ liên quan Lễ hội truyền thống của nhân dân địa phương được tổ chức vào ngày 13 tháng Giêng. Trong lễ hội, ngoài phần lễ tế thần, thành hoàng làng, còn có nhiều trò chơi dân gian truyền thống được tổ chức như: Cờ tướng, đấu vật, chọi gà, đập niêu, hát quan họ dưới thuyền…Ngoài ra các nghi lễ khác cũng được tổ chức tại di tích như ngày việc làng 11/4, ngày sự lệ (10/8), ngày tế miếu âm hồn 15/11 …Mỗi một nghi lễ lại có những quy định khác nhau. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN LỤC NAM
Bắc Ninh 2190 lượt xem
Đình Nội, xã Việt Lập, huyện Tân Yên là một trong số những ngôi đình cổ có quy mô to đẹp, nổi tiếng của vùng đất Tân Yên xưa cũng như nay. Căn cứ vào nguồn tư liệu Hán Nôm còn khắc ghi trên các cột gỗ trong đình cho biết, đình Nội được xây dựng vào đời vua Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 34 (năm 1775), trên một gò đất cao thoáng giữa làng Lý và làng Nội. Tuy nhiên, do đình được dân 3 giáp: Tây, Mỹ, Trong của làng Nội làm vì thế mà đình có tên là đình Nội. Ngoài ra khi đình làm xong, dân làng còn đặt tên đình là “Tiên Đình”. Hai chữ ấy được đắp nổi trên đỉnh bờ nóc đình để mọi người tới nơi chiêm ngưỡng. Muốn đến thăm di tích, du khách có thể đi theo đường từ thành phố Bắc Giang theo quốc lộ 1A (cũ), qua cầu Sông Thương, rẽ phải theo tỉnh lộ 398 tuyến Bắc Giang - Cao Thượng, qua cây số 11, rẽ tay phải theo đường cấp phối liên thôn khoảng lkm là tới đình Nội. Ngược dòng thời gian tìm về lịch sử khởi dựng của đình Nội được biết, khi đã chuẩn bị đủ nguyên vật liệu, dân làng Nội đón thợ mộc ở Bắc Ninh lên làm đình. Các hiệp thợ cùng đua nhau trổ hết tài năng của mình nên đã để lại ở đình Nội nhiều bức chạm gỗ rất đẹp. Trong đó, điển hình là bức chạm đề tài “chèo thuyền bắt cò” dựa theo điển tích: “bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi”, diễn cảnh con cò thì mổ con trai, con trai cặp vỏ giữ chặt mỏ cò nhân thế ông lão đánh cá chèo thuyền ra bắt cả đôi. Lại có bức chạm hai quan viên ngồi uống rượu với nhau, nhưng sau lưng mỗi vị quan này lại có hai võ sĩ cầm kiếm đứng ngay bên cạnh. Người đời gọi bức chạm này là “vừa đánh vừa đàm”. Nghệ nhân như muốn nói rằng trong bất kỳ điều gì cũng cần phải bình tĩnh, bàn bạc kỹ, như vậy mới mong thành công. Cũng lại là những nét chạm khắc thô phác, nhưng lại thế hiện rõ mọi hàm ý. Lại có bức nữa miêu tả cảnh các kỵ binh ra trận trong tư thế vô cùng khỏe khoắn, rắn chắc. Ngoài ra, trong đình còn rất nhiều những bức chạm khắc với những đường nét tinh xảo mà mỗi bức, người nghệ nhân lại phản ánh một thực tế xã hội bây giờ cùng một hàm ý sâu xa khác. Đình Nội làm nên đế tôn thờ đức Thánh Cao Sơn, Quý Minh là những thuộc tướng từ thời Hùng Vương đã có nhiều công lao trong việc đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ sự bình yên của đất nước. Trong đình còn bảo lưu đầy đủ các đồ thờ tự quý giá như: Long ngai, bài vị, bộ kiệu rước, bộ bát bửu gỗ mang phong cách nghệ thuật thời Lê (thế kỷ XVIII). Trải qua thời gian, đình Nội cũng được trùng tu, tôn tạo lại qua các giai đoạn lịch sử. Đặc biệt là trong những năm cuối thế kỷ XIX, đình đã được vị thủ lĩnh của nghĩa quân Yên Thế - Đề Thám quan tâm, xoay chuyển hướng cho phù hợp. Câu chuyện này được các cụ cao niên kể lại rằng: Đình Nội trước quay về hướng Tây Nam, mái đao chỉ thẳng vào xóm Nội. Dân thấy “góc đao ao đình” là điều không hay khiến dân trong làng thường xuyên lục đục mất đoàn kết. Vì thế, dân làng đã xin cụ Đề Thám chuyển hướng cho khi Hoàng Hoa Thám cầm quân đánh Pháp, có quan hệ thân thiết với làng Nội. Nghĩa quân thường xuyên qua lại nơi đây họp bàn với các cụ Đốc Tuân (làng Lý); Chánh Hoạch (làng Nội), Tống Lò (Văn Miếu). Biết được chuyện đó, Đề Thám với uy tín của mình đứng ra xoay lại hướng đình cho làng Nội. Từ đó, đình xoay về hướng Đông Nam. Cũng sau lần bắn đình này, dân cho xây trước đình 2 tòa tả vu, hữu vu và cổng nghi môn bề thế. Nhìn từ xa, đình làng Nội nổi lên sừng sững giữa khung cảnh thiên nhiên đẹp của một làng quê với lũy tre xanh xanh, với những cây cổ thụ vươn mình trong mưa nắng bên sân đình, cùng hồ sen xanh ngát tỏa hương thơm mát từ ao đình khiến tình quê càng thêm nồng đượm. Ngày nay trải qua những thăng trầm của lịch sử, đình Nội cũng không còn được nguyên vẹn như ban đầu. Một số hạng mục của công trình cũ đã bị mất đi như: Tòa giải vũ, cổng nghi môn, toàn bộ hệ thống sàn gỗ của đình và nhiều câu đối, hoành phi cũng không còn. Nhưng về cơ bản, đình Nội vẫn giữ được dáng vẻ của một ngôi đình cổ. Đình hiện có bố cục mặt bằng theo lối chữ nhất gồm 1 tòa đại đình 5 gian 2 chái. Phía trước đình là 1 dãy tả vu 3 gian. Bên trong, hệ thống khung gỗ được liên kết vì theo lối chồng rường, giá chiêng. Đình hiện còn bảo lưu một số nét kiến trúc truyền thống thế hiện ở các mảng hoa văn được chạm khắc trên các cấu kiện gỗ, với nghệ thuật chạm nổi, chạm chìm, chạm kênh bong rất công phu, tỉ mỉ. Các đề tài trang trí thể hiện phong phú như: Đề tài tứ linh, tứ quý, chèo thuyền bắt cò, cò lả,... mang đặc trưng phong cách thời Lê-Nguyễn. Hệ thống đồ thờ quý trong đình còn lại như: 1 bộ kiệu rước, 2 ngai thờ, 2 bát hương thời Lê, 2 quả thờ, 1 ống thư... Những hiện vật này đều là những hiện vật gốc rất có giá trị trong việc nghiên cứu lịch sử di tích cũng như vùng đất con người nơi đây. Hằng năm, vào ngày 10, 11 tháng Giêng, dân làng Nôi lai tổ chức lễ hội lớn tại trung tâm đình Nội. Trong lễ hội dân làng có tổ chức tế lễ, rước sách long trọng; có thi cỗ, làm công xôi năm mâm đắp thành 4 chữ “thiên hạ thái bình”, có lệ hát ca trù thờ Thánh, hát tuồng, hát chèo... đón dân kết chạ ở Lăng Cao cùng đến vui hội. Đồng thời, hội có tổ chức nhiều trò chơi dân gian đặc sắc như: Chơi cướp cầu, đu, chọi gà, vật... thu hút nhiều người từ các nơi về tham dự. Vì thế, người dân làng Nội vẫn có câu ca nói rằng: “Đình Nội có hội cướp cầu Tháng Giêng mười một đâu đâu cũng về”. Với những giá trị tiêu biểu về kiến trúc nghệ thuật và lịch sử, văn hóa đồng thời là một địa điểm có mối liên hệ mật thiết với cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX), đình Nội đã vinh dự được nằm trong danh sách 23 di tích và cụm di tích lịch sử Những địa điểm khởi nghĩa Yên Thế được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 548/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2012 công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt. Quyết định này khẳng định vai trò, giá trị của di tích và chính là một sự tri ân của nhà nước đối với công lao to lớn của bậc tiền nhân đã tạo dựng cho các thế hệ con cháu ngày nay được sống trong thanh bình. NGUỒN Trung tâm thông tin & xúc tiến du lịch Bắc Giang
Bắc Ninh 1702 lượt xem
Đền Hả thuộc thôn kép 2B, xã Hồng Giang, huyện Lục Ngạn là một di tích quan trọng và có giá trị cao về mặt lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật. Ngôi đền nằm giữa ngọn đồi Kỳ- Sơn từ xưa đến nay vẫn có tên gọi là đền Hả, Từ Hả. Dọc quốc lộ 31 từ ngã tư cao tốc Bắc Giang mới rẽ phải khoảng hơn 40km đến ngã ba Kép, Hồng Giang lên một đoạn rẽ phải hơn một cây là đến di tích. Đền Hả thờ Thân Cảnh Phúc ( tức Vũ Thành, Cảnh Nguyên, Cảnh Long hay Thân Đạo Nguyên) là phò mã nhà Lý lấy công chúa Thiên Thành. Ngoài ra, Đền Hả từ xưa đến giờ không phải chỉ thờ một tướng vũ thành, mà còn thờ 6 vị khác nữa đều là phò mã và công chúa nhà Lý là; thần thân tướng quốc Vũ Tỉnh; quốc mẫu Thiên Thành Vũ Thị Cảnh; Thuỵ Nhiên công chúa lý thị Dược; Bình Dương công chúa lý thị Giám; Yến Hoa công chúa lý thị Kiên và Thánh phi Giáp Thị Tuấn. Đền Hả xã Hồng Giang là loại hình di tích lưu niệm danh nhân để tưởng nhớ không chỉ 1 danh nhân là tướng quân Vũ Thành mà còn 6 danh nhân khác thời Lý. Ngôi đền Hả nằm ở phía đông nam làng Hả Hộ, trên một khu đồi rộng, bố cục theo kiểu chữ Tam gồm ba toà nhà không lớn lắm là đền hạ, đền trung và đền thượng. Bên cạnh là ngôi chùa cùng tên. Tất cả tạo thành một thể thống nhất về kiến trúc nằm bên bờ Lục Nam chừng nửa cây số. Ba ngôi đền này nằm song song với nhau, riêng hai đền trung và đền thượng được nối với nhan bằng ống muống. Nhà làm đơn giản, kết cấu giữa các vì kèo theo lối kẻ truyền độc trụ. Đền Hạ kiến trúc gồm 3 gian 2 vỉ với 6 vì kèo và 24 cột lớn nhỏ gián cách giữa các gian không đều. Phía sau ngôi đền Hạ là ngôi đền trung gồm 3 gian 2 dĩ và cuối cùng là đền thượng cũng được xây dựng gồm 3 gian 2 dĩ. Nằm trong một tổng thể kiến trúc của ngôi đền là chùa Từ Hả. Chùa kiến trúc theo kiểu chữ đinh. Xung quanh khu vực đền là một số di tích khác gắn liền với ngôi đền và lễ hội hàng năm là ao rối, núi trống, núi chiêng, ruộng lá cờ, bãi Dược… đã làm cho di tích thêm phong phú và sống động NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN LỤC NGẠN TỈNH BẮC GIANG
Bắc Ninh 2547 lượt xem
Đền Khánh Vân nằm kề bờ sông Lục Nam, thuộc đồi Tân Dã, thôn Hà Thị nay là tổ dân phố Trần Hưng Đạo, thị trấn Chũ huyện Lục Ngạn. Từ Bắc Giang đi theo đường quốc lộ 31 qua huyện Lục Nam vào đất Lục Ngạn với khoảng cách gần 40km tới thị trấn Chũ (trung tâm huyện). Từ đây rẽ phải gần 500m là tới đền. Đền Khánh Vân là tên chữ (Hán- Việt) được khắc trên mái đền hiện nay, đây là tên chính của đền. Còn tên đền Quan Quận là tên dân gian gọi theo nhân vật được thờ ở đền. Đền thờ Vi Hùng Thắng người Lục Ngạn một tướng thời Trần có công giúp Trần Triều chống giặc Nguyên – Mông ở thế kỷ 13. Vi Hùng Thắng là con cụ Phúc Tính và bà Từ Duyên của họ Vi ở làng vải Kim Sơn, huyện Lục Ngạn. Ông được sánh cùng Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão và các tướng khác. Sau được vinh phong tước quận công nên dân gọi là đền Quan Quận. Đền Khánh Vân thuộc loại hình lưu niệm danh nhân để ghi công Vi Hùng Thắng người con ưu tú của Lục Ngạn đã có công giết giặc cứu nước. Đền Khánh Vân nguyên xưa không còn. Ngôi đền hiện nay mới được tu dựng lại trên nền đất cũ theo các cụ nơi đây chính là mảnh đất chôn cất ông, chính là mộ của ông. Đền được bố cục theo kiểu chữ đinh, chính giữa đền có tượng Vi Hùng Thắng ở tư thế ngồi. Ngoài ra, trong đền còn thờ các tướng cùng thời ông có công như Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão… Cạnh đền phía tay phải là chùa Khánh Vân và các kiến trúc khác phục vụ sinh hoạt, lễ hội, cúng bái… NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN LỤC NGẠN TỈNH BẮC GIANG
Bắc Ninh 2329 lượt xem
Trong không gian văn hóa tỉnh Bắc Giang, chùa Khám Lạng là một di tích cổ hiện lưu giữ nhiều giá trị lịch sử văn hóa và giá trị kiến trúc nghệ thuật, tiêu biểu nhất là chiếc Hương án đá hoa sen thời Lê Sơ. Chùa Khám Lạng, xã Khám Lạng, huyện Lục Nam, được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia theo Quyết định số 53/QĐ-BVHTT ngày 2/8/1999 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch). Ngôi chùa tọa lạc ở thôn Bến nhìn ra sông Lục Nam và dãy núi Huyền Đinh hùng vĩ. Đây là ngôi chùa cổ hiện còn lưu giữ nhiều giá trị lịch sử văn hóa và giá trị kiến trúc nghệ thuật, hiện nay chùa Khám Lạng còn bảo lưu một số tài liệu, hiện vật có giá trị lịch sử, văn hoá tiêu biểu nhất là chiếc hương án đá hoa sen thời Lê sơ. Trên hương án khắc dòng chữ “Thuận Thiên ngũ niên - Nhâm Tý niên” (tức là năm Nhâm Tý, niên hiệu Thuận Thiên thứ năm (đời vua Lê Thái Tổ - 1432). Nhìn tổng thể phần mặt bệ hương án như một tòa sen lớn. Tại Bắc Giang, ngoài chùa Cao chưa tìm thấy nơi nào có hương án độc đáo như vậy. Với giá trị lịch sử văn hóa, giá trị mỹ thuật và tính độc đáo quý hiếm, hương án đá hoa sen chùa Khám Lạng đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia tại Quyết định số 2382/QĐ-TTg ngày 25/12/2015. Được biết, chùa Cao là công trình kiến trúc nghệ thuật thời Trần, năm 1999 được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia. Năm 2013, Viện Khảo cổ học Việt Nam phối hợp cùng Bảo tàng tỉnh tổ chức khai quật và đã phát hiện nhiều di vật như: Ngói mũi sen đơn, ngói mũi lá, ngói bò... có niên đại từ thời Lý, Trần đến thời Lê, Nguyễn. NGUỒN : Trung tâm thông tin & xúc tiến du lịch Bắc Giang
Bắc Ninh 1760 lượt xem
Đình Cao Thượng nằm ở phía Đông-Nam núi Yên Ngựa, làng Cao Thượng, xã Cao Thượng, huyện Tân Yên (Bắc Giang). Là một ngôi đình cổ to đẹp lộng lẫy, bề thế nhất vùng Tân Yên. Nơi đây đã in đậm dấu chân của người Anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám trong cuộc khởi nghĩa Yên Thế cách đây 130 năm. Đình Cao Thượng gồm toà đại đình 5 gian 2 dĩ, hậu cung 3. Đây là một công trình kiến trúc tiêu biểu, mang đặc trưng phong cách nghệ thuật của thời Lê thế kỷ XVII. Ngôi đình có kiểu thức kiến trúc: thượng con chồng-giá chiêng, hạ con chồng cốn-kẻ với toà đại đình 5 gian 2 dĩ cao rộng, bề thế, trang nghiêm. Khoảng gian giữa rộng tới 4,50, gian cạnh rộng gần 4m, cột cái có chu vi hơn 2m, đường kính hơn 70cm, đủ thấy quy mô kiến trúc đồ sộ của ngôi đình. Chiều dài của đình tới hơn 24m, chiều rộng tới hơn 14m, diện tích đại đình rộng đúng một sào Bắc Bộ, quả là một công trình kiến trúc gỗ có quy mô lớn nhất vùng này. Với 4 mái xoải rộng, 4 đao cong vút, bờ nóc gắn hoa chanh. Riêng đầu hồi đắp mặt hổ phù, vốn là của những lần tu sửa đình vào thời Nguyễn. Riêng về kết cấu khung chịu lực, gồm 6 hàng chân cột, tổng cộng 48 cột có 8 cột cái cực kỳ lớn, hầu như không thấy ở đình nào của tỉnh Bắc Giang hiện nay. Đây là nét nổi trội nhất về mặt kiến trúc của đình Cao Thượng là nhiều cột và cột to. Cả 8 cột cái có 8 đầu dư, 8 cột này cao hơn 5m, cột quân cao 3,5m, và cột hiên cũng cao tới 2,7m. Toàn bộ nền đình lát gạch bát to 40 x 40 x 5cm, cao hơn mặt sân đình 45cm. Bó toàn gạch chỉ, 4 góc có 4 cột gạch đỡ mái xoải ra tới gần 2m. Tạo nên nét nhẹ nhàng, thanh thoát cho cả mái đình vốn đường bộ, uy nghiêm. Thông thường đình làng kiến trúc theo kiểu chữ Đinh nhưng đình Cao Thượng lại kiến trúc theo kiểu chữ Nhị với một tòa hậu cung một gian 2 dĩ, 4 mái đao cong, 4 hàng chân cột lim chắc chắn, có cửa cấm thâm nghiêm, liền kề mái trước và mái sau đình lớn. Kiểu kiến trúc gỗ độc đáo này đã tạo cho ngôi đình vừa bền vững, chắc khoẻ, đồ sộ mà bên trong lại cao thoáng và rộng rãi mà vẫn nhẹ nhàng, thanh thoát, đẹp uy. Hiện nay, trong đình còn lưu giữ được một số đạo sắc phong với các niên đại khác nhau, gia phong hai vị Cao Sơn - Quý Minh là: Thượng đẳng thần.Việc thờ phụng thánh thần được dân làng tổ chức rất trọng thể và tôn nghiêm với đầy đủ các tiết lệ: xuân thu nhị kỳ: 12 tháng giêng và 20 tháng tám (âm lịch) đều có rước sách, tế lễ tưng bừng. Từ 12 đến 14 tháng giêng, hai làng Cao Thượng và Đầu Cầu đến mở hội lớn rước thánh từ đình Chanh và đình Trên về đình Chợ (đình Cao Thượng gần chợ nên còn gọi là đình Chợ). Hai làng tổ chức lễ tế rất lớn và hát ca trù thờ thánh. Bên ngoài đình có nhiều trò vui: đánh vật, cờ bỏi, chọi gà, nhảy phỗng…Lễ hội có hát tuồng, hát chèo, dân chúng xa gần nô nức đến hội và đã trở thành hội lệ rất thiêng liêng. Trong những năm chống thực dân Pháp, Hoàng Hoa Thám thường xuyên đến dự hội đình Cao Thượng và cho nghĩa quân góp vui. Khi giặc Pháp đốt đình Trên, Đề Thám đã bỏ công quỹ và cho nghĩa quân cùng dân làm lại đình mới. Ngôi đình không chỉ có giá trị về kiến trúc mà còn mang đậm dấu ấn lịch sử khi mà nghĩa quân cụ Đề Thám, bộ đội chủ lực của ta thời chống thực dân Pháp đã từng đóng quân tại ngôi đình này. Đặc biệt trong thời gian có phong trào khởi nghĩa Yên Thế, nghĩa quân do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo đã có mối liên hệ rất mật thiết với làng Cao Thượng và đình Cao Thượng. Bởi thế, Đề Thám đã cho lập căn cứ trên núi Yên Ngựa thuộc khu vực đình Cao Thượng. Năm 1890, thực dân Pháp dò biết ở núi Yên Ngựa có quân của cụ Đề nên đã tổ chức lực lượng tấn công đánh nghĩa quân. Bị thất bại, chúng điên cuồng đốt phá đình, chùa và núi Yên Ngựa. Trong thời kỳ hòa hoãn lần thứ 2 giữa Pháp và Đề Thám (1897-1909), Đề Thám đã giúp dân tu sửa lại đình và dựng lại ngôi chùa trên nền chùa xưa. Những chứng tích lịch sử và quá khứ hào hùng của di tích đình Cao Thượng đã là niềm tự hào của cán bộ và nhân nơi đây. Ngoài những nét độc đáo về kiến trúc, chứng tích lịch sử, Đình Cao Thượng còn được biết với phiên chợ đặc biệt vào mùng 2 Tết hàng năm đó là "Phiên chợ Âm dương”. Theo người dân thôn Cao Thượng, xã Cao Thượng (Tân Yên) thì nói là đặc biệt bởi lẽ "Phiên chợ Âm dương” mỗi năm chỉ họp một lần ấn định vào ngày mùng 2 Tết. Người đi chợ đều vui vẻ, thoải mái về tinh thần, họ quan niệm rằng đó là dịp làm phúc, làm điều thiện với người đã chết và cuộc sống tâm linh của họ sẽ thanh thản hơn. Với những giá trị tiêu biểu, đặc sắc Đình Cao Thượng đã vinh dự được Chính phủ công nhận Di tích Quốc gia đặc biệt năm 2012. NGUỒN : Trung tâm thông tin & xúc tiến du lịch Bắc Giang
Bắc Ninh 2023 lượt xem