Di tích lịch sử

Việt Nam

Cơ quan bí mật của Thành ủy Hải Phòng

Cơ quan bí mật của Thành ủy Hải Phòng (thời kỳ 1936 - 1939), đặt tại nhà cụ Đặng Thị Sáu ở xóm Nam, xã Dư Hàng Kênh ven đô thị Hải Phòng (nay là ngõ Than, cụm dân cư số 2 phường Dư Hàng Kênh, quận Lê Chân). Tại đây, cán bộ Đảng trực tiếp chỉ đạo phong trào đấu tranh của công nhân, thợ thuyền các xưởng thợ, công sở các vùng nông thôn. Tháng 9/1936, đồng chí Nguyễn Văn Linh (cố Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam) từ Côn Đảo trở về, được Đảng giao nhiệm vụ tổ chức, lãnh đạo phong trào cách mạng ở Hải Phòng. Đồng chí Nguyễn Văn Linh và đồng chí Nguyễn Công Hòa đã chọn nơi đây làm địa điểm chỉ đạo phong trào cách mạng tại Hải Phòng thời kỳ 1936 - 1939. Tháng 04/1937, Thành ủy Hải Phòng được thành lập do đồng chí Nguyễn Công Hòa là Bí thư. Nhờ kết quả của công tác tổ chức, phát triển các cơ sở Đảng và cơ sở quần chúng cách mạng, phong trào đấu tranh của công nhân và các giới lao động khác ở Hải Phòng - Kiến An lại bùng lên mạnh mẽ. Khi đồng chí Nguyễn Công Hòa chuyển sang công tác khác, đồng chí Nguyễn Văn Linh được cử làm Bí thư Thành ủy tiếp tục ở và làm việc tại nhà cụ Đặng Thị Sáu. Tại đây, nhiều chủ trương của Thành ủy Hải Phòng đã được triển khai nhanh chóng để chỉ đạo phong trào cách mạng. Đầu năm 1939, đồng chí Nguyễn Văn Linh được Trung ương điều vào tăng cường cho Thành ủy Sài Gòn, đồng chí Tô Hiệu về phụ trách phong trào cách mạng ở Hải Phòng và vùng mỏ (Quảng Ninh). Cơ quan bí mật của Thành ủy Hải Phòng (thời kỳ 1936 - 1939) tại nhà cụ Đặng Thị Sáu là di tích lịch sử cách mạng duy nhất còn lại, tương đối nguyên vẹn của chặng đường cách mạng vẻ vang những năm 1936 - 1939. Di tích này được Nhà nước xếp hạng năm 1998. NGUỒN: Cổng Thông tin điện tử thành phố Hải Phòng

Hải Phòng 2559 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Miếu Nam

Miếu Nam là công trình tín ngưỡng do nhân dân xã Bắc Sơn, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng dựng lên cách đây đã nhiều thế kỷ để tôn thờ nhân vật lịch sử có công với đất nước trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược của các thế lực phong kiến phương Bắc, góp phần dựng lên nhà nước Vạn Xuân tự chủ đầu tiên trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta hồi thế ký thứ 6. Theo bản thần tích khắc trên phiến đá hình trụ vuông bốn mặt niên hiệu Tự Đức thế kỷ thứ 19 đang trưng bày tại Bảo tàng Hải Phòng cho biết: lịch sử nhân vật được tôn thờ tại miếu Nam, xã Bắc Sơn là một danh tướng, tên huý là Nguyễn Hồng, người địa phương. Trong cuộc khởi nghĩa chống lại sự đô hộ của nhà Lương (Trung Quốc) hồi thế kỷ thứ 6, Nguyễn Hồng đã tham gia vào quân đội của Lý Bí, lập được nhiều công lao góp phần vào việc tiêu diệt đội quân xâm lược nhà Lương, giúp Lý Bí lập lên nhà nước Vạn Xuân, mở ra thời kỳ giành quyền độc lập, tự chủ của dân tộc ta. Do có công lao, nên khi mất, Nguyễn Hồng đã được nhân dân quê hương lập đình thờ và suy tôn làm thành hoàng làng, ngàn năm hương khói phụng thờ. Miếu Nam khởi thuỷ có tên gọi là đình Nam. Tương truyền, đình Nam được dựng ngay tại nơi Nguyễn Hồng mất mà dấu tích để lại đến nay là mộ phần của ông được gìn giữ ngay trong hậu cung của đình, bên trên là thần tượng uy nghi đặt trong khám thờ. Trải qua những năm kháng chiến chống Pháp, đình Nam đã bị tàn phá, chỉ còn lại hậu cung. Có lẽ do quy mô quá nhỏ nên dân làng gọi đây là miếu. Nhưng với lòng thành kính, dần dần người dân địa phương đã bỏ nhiều công sức, tiền của để dựng lại ngôi miếu ngày càng khang trang, sạch đẹp. Ngày nay, thăm di tích miếu Nam, xã Bắc Sơn, chúng ta sẽ bắt gặp ở đây nét duyên dáng của mái đình làng Việt Nam truyền thống cùng những đồ thờ đẹp mắt, lộng lẫy vàng son, trong đó có chiếc kiệu bát cống độc đáo ở huyện An Dương. Với những giá trị nhiều mặt về vật thể và phi vật thể, năm 1990, Nhà nước xếp hạng di tích miếu Nam (đình Nam), xã Bắc Sơn, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng là Di tích Lịch sử Văn hoá. NGUỒN: Cổng Thông tin điện tử thành phố Hải Phòng

Hải Phòng 2728 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Nhu Thượng

Đình Nhu Thượng thuộc xã Quốc Tuấn, huyện An Dương, Hải Phòng thờ hai chị em Mại Thị Cầu và Mai Kỳ Sơn, con vua Mai Hắc Đế, người đứng đầu chống quân đô họ nhà Đường ở thế kỷ 8. Do sẵn có quan hệ bằng hữu và thân thuộc với gia định họ Phạm và họ Hoàng ở đây, Mai Thị Cầu và Mai Kỳ Sơn đã giúp đỡ dân làng ruộng đất, vàng bạc, đồng thời chiêu mộ dân thôn xây dựng đồn trại, tham gia nghĩa binh, góp phần củng cố triều đại của Nhà Mai Thúc Loan. Tại các thôn Văn Xá, Nhu Điều, Kiều Yên Thượng ngày nay vẫn còn mang địa danh như đầm quan, địa lính... có nguồn gốc từ hai chị em họ Mai chu cấp cho dân mỗi làng 10 mẫu đất canh tác. Sau một trận giao chiến ác liệt với quân đô hộ nhà Đường kéo sang đàn áp cuộc khởi nghĩa, Mai Hắc Đế hy sinh, quân sỹ tôn Mai Kỳ Sơn lên nối ngôi cha. Lực lượng nghĩa quân của Mai Kỳ Sơn còn chiếm cứ 2 vùng Đông và Nam phủ Tống Bình được một thời gian dài. Sau hơn 2 tháng quân giặc mới phá được căn cứ phòng thủ của hai chị em Mai Kỳ Sơn ở Kiều Yên Thượng, Nhu Điều. Ngày nay, trên bờ một con trạch thoát triều cũ, chảy ra sông Lạch Tray, thuộc địa phận xã Quốc Tuấn, huyện An Dương vẫn còn 2 ngôi miếu nhỏ, một thờ bà chị, một thờ ông em. Tương truyền đây là nơi xưa kia dân làng an táng 2 vị, nơi đây đặt bài vị, bát hương. Tháng 3 âm lịch hàng năm, dân làng mở hội nghi lễ thành hoàng từ 2 ngôi miếu về đình làm lễ mở hội. Đình Nhu Thượng từ lâu đã trở nên thân quen với người dân địa phương bởi quy mô kiến trúc bề thế, nghệ thuật chạm, khắc trên gỗ khá tinh tế, mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn đầu thế kỷ XIX. Đình cấu trúc kiểu chữ Đinh, gồm 5 gian tiền đường, 3 gian hậu cung bề thế được xây dựng theo thức chồng diêm, nóc các, 2 tầng, 8 mái cao vượt hẳn lên so với 5 gian tiền đường, dựng năm Tự Đức 14 (1861). 20 năm sau, mùa xuân năm Tự Đức 34 (1882), dân làng dựng tiếp 5 gian tiền đường, nối với tòa hậu cung bằng cách tận dụng nguồn vật liệu gỗ, đá của ngôi đình cũ ven sông. Đình Nhu Thượng được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa năm 1991. NGUỒN: Cổng Thông tin điện tử thành phố Hải Phòng

Hải Phòng 2979 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Nam

Đình Nam ở phường Bắc Sơn, một trong những công trình tín ngưỡng quan trọng của người dân vùng đất Đồ Sơn, vừa được phục dựng. Đây vừa là điểm sinh hoạt tâm linh và điểm đến linh thiêng tại khu du lịch nổi tiếng của thành phố. Nằm giữa khu dân cư đông đúc ở trung tâm quận Đồ Sơn, cách không xa bãi biển rì rào sóng vỗ quanh năm, đình Nam ngày nay có quy mô vừa phải, mang dáng dấp của những ngôi đình cổ phong cách thời Lê. Đình có kiến trúc chữ Đinh, gồm 3 gian, 2 trái, được làm chủ yếu bằng gỗ và đá xanh. Hệ thống mái cong, đao vượt với những đường nét chạm khắc tứ linh tinh xảo mang dấu ấn thế kỷ 15. Đặc biệt, toàn bộ 38 cột gỗ trong đình có đường kính từ 34-45cm được chọn lựa cẩn thận từ những thân cây kiền kiền- loại gỗ quý, cứng như lim nhưng dai hơn. Trải qua thăng trầm của lịch sử, đình Nam 2 lần bị phá hủy hoàn toàn. Lần thứ nhất vào khoảng thế kỷ 17, đình Nam là một trong những nơi đóng quân của Quận He Nguyễn Hữu Cầu ở Đồ Sơn. Khi chúa Trịnh Doanh sai Hoàng Ngũ Phúc, Phạm Đình Trọng đem quân đánh dẹp cuộc khởi nghĩa, đình bị phá tan tành. Sau đó, người dân địa phương phục dựng lại đình với 5 gian, 2 trái, trang nghiêm, bề thế. Đến cuối năm 1953, đình lại bị phá một lần nữa khi thực dân Pháp cưỡng bức người dân ở đây đi nơi khác, lập “vành đai trắng” ở Đồ Sơn. Năm 1993, Đảng ủy, ỦY BAN NHÂN DẬN, MẶT TRẬN TỔ QUỐC Việt Nam và người dân phường Vạn Sơn xây dựng lại đình trên nền cũ. Thời kỳ đó, do kinh tế khó khăn nên chỉ dựng tạm giam nhà cấp 4 và tạo một số pho tượng gỗ để làm nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của người dân. Từ đó đến nay, tuy đã nhiều lần nâng cấp, sửa chữa, song gian nhà thờ xuống cấp nghiêm trọng, hệ thống tượng gỗ bị mối xông hư hại. Năm 2011, nhờ nguồn kinh phí xã hội hóa, 6 pho tượng thờ được đúc lại bằng đồng dát vàng. Xuất phát từ nguyện vọng của bà con, lãnh đạo phường quyết tâm phục dựng lại ngôi đình cũ, khởi công tháng 10-2014. Ban Quản lý đình Nam đang hoàn thiện bức đại tự, câu đối và một số chi tiết bên trong ngôi đình. Mong muốn của chính quyền và người dân địa phương tiếp tục mở rộng khuôn viên của đình, khôi phục khu vực từ chỉ và thực hiện các thủ tục công nhận di tích NGUỒN: Cổng Thông tin điện tử thành phố Hải Phòng

Hải Phòng 2571 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Phủ thờ Tôn Thất Thuyết

Phủ thờ Tôn Thất Thuyết thuộc Thôn vân Thê, xã Thủy Thanh, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Từ trung tâm thành phố Huế đến cầu An Cựu (bờ bắc) theo đường Tỉnh lộ qua Cầu ngói Thanh Toàn về thôn Vân Thê là đến di tích (khoảng 7km). Tôn Thất Thuyết sinh ngày 29/3 năm Kỷ Hợi (12/5/1839) tại xóm Phú Mộng, xã Xuân Hòa, huyện Hương Trà (nay thuộc phường Kim Long – thành phố Huế) trong một gia đình có truyền thống binh nghiệp thuộc phòng 4 hệ 5 của dòng họ Nguyễn Phúc. Thân sinh là Đề đốc Tôn Thất Đính, thân mẫu là bà Văn Thị Thu. Trong sự nghiệp của mình, ông được cử giữ nhiều chức vụ: Án sát tỉnh Hải Dương, Tán tương quân thứ Thái Nguyên rồi Tán lý quân thứ Sơn – Hưng – Tuyên, Tham tán, Hữu tham tri bộ Binh, Tuần phủ Sơn Tây, Tuần phủ, hộ lý Tổng đốc Ninh Thái kiêm Tổng đốc các việc quân Ninh, Thái, Lạng, Bằng, Hiệp đốc quân vụ đại thần, Thượng thư bộ Binh, Phụ chính đại thần, Điện tiền tướng quân, Thượng thư bộ Lễ, Thượng thư bộ Lại…Ông luôn có chủ trương đánh Pháp, tháng 11/1873, quân của ông cùng quân của Lưu Vĩnh Phúc đánh bại quân Pháp ở Ô Cầu Giấy, Hà Nội, ông muốn thừa thắng tấn công địch nhưng triều đình muốn ông triệt binh về Sơn Tây, ông cự tuyệt, triều đình phải cử người đến bàn bạc ông mới chịu lui binh. Tháng 6/1874 khi được điều về Nghệ An đối phó với cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn và Đặng Như Mai, song khi đến nhậm chức, ông tỏ ra thiện cảm và giúp đỡ phong trào Văn Thân Nghệ Tĩnh. Sau khi Hàm Nghi lên ngôi, Tôn Thất Thuyết tích cực chuẩn bị cho việc đánh Pháp. Ông lập quân Phấn nghĩa và Đoàn kiệt, xây dựng căn cứ Tân Sở và hệ thống Sơn phòng, mua sắm tích trữ vũ khí, tăng cường phòng thủ kinh thành, khích lệ sỹ phu và văn thân và mở các cuộc đấu tranh không khoan nhượng với các phần tử chủ hòa, thân Pháp trong nội bộ Triều đình và Hoàng tộc. Đêm ngày 4 rạng ngày 5 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết chủ động tổ chức tấn công quân Pháp đóng tại Tòa Khâm sứ, Trấn Bình Đài và khu nhượng địa. Cuộc tấn công thất bại, sáng ngày 5/7/1885, ông hộ giá vua Hàm Nghi rời bỏ kinh thành ra Quảng Trị rồi ra Hà Tĩnh phát động phong trào Cần Vương. Đầu năm 1886, sau khi sắp xếp, ổn định bộ máy của Triều đình kháng chiến Hàm Nghi, ông ra Bắc vận động các sỹ phu, văn thân, tù trưởng các dân tộc thiểu số nổi lên đánh Pháp. Đầu năm 1887, sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh, song Triều đình Mãn Thanh theo yêu cầu của Pháp đã quản thúc ông tại Quảng Đông. Ông mất tại Thiều Châu ngày 22/9/1913. Phủ thờ Tôn Thất Thuyết vốn là Phủ thờ của dòng họ, được Tôn Thất Thuyết cho xây dựng khoảng năm Tự Đức thứ 19 (1866). Sau ngày Tôn Thất Thuyết mất dòng họ lấy Phủ này làm nơi thờ ông. Di tích Phủ thờ Tôn Thất Thuyết được công nhận là di tích Quốc gia ngày 15/10/1994 tại Quyết định số 2754-Quyết Định/Bộ Văn hóa Thông tin của Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch). Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế 2880 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Lăng mộ Trần Văn Kỷ.

Lăng mộ Trần Văn Kỷ thuộc làng Vân Trình, xã Phong Bình, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Trần Văn Kỷ là một danh sỹ kiệt xuất triều đại Tây Sơn. Năm 1777, Trần Văn Kỷ đỗ Giải nguyên. Năm 1786, Trần Văn Kỷ được Bắc Bình vương Nguyễn Huệ cho mời để hỏi về kế trị loạn. Khâm phục tài năng của ông, sau khi từ Quy Nhơn về Phú Xuân, Nguyễn Huệ đã phong cho ông làm Trung Thư phụng chính (người dự thảo chính lệnh cho vua), nắm toàn bộ trung thư cơ mật, tham mưu cho Nguyễn Huệ và được phong tước Hầu. Trần Văn Kỷ đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức lại bộ máy cai trị ở Đàng ngoài, tiến cử một số nhân sỹ nổi tiếng vào bộ máy nhà nước như: Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Võ Văn Ước, Nguyễn Thế Lịch, Vũ Huy Tấn…, đứng ra tổ chức hội kiến giữa vua Quang Trung và Nguyễn Thiếp một danh sỹ đất Nghệ An. Dưới triều Quang Trung, ông có nhiều công lao giúp Quang Trung trị vì đất nước. Sau khi vua Quang Trung mất, Nguyễn Ánh thắng thế, Trần Văn Kỷ về quê, đổi tên cải dạng nuôi chí phục thù. Bị phát giác, ông phải vào Kinh đô Phú Xuân, trên đường vào đến ngã ba Sình ông hô to “Trung thần bất sự nhị quân” rồi nhảy xuống sông trầm mình tự vận để giữ tròn khí tiết, ông mất ngày 24/12/1801 (tức ngày 19 tháng 11 năm Tân Dậu). Phần mộ Trần Văn Kỷ nằm trên một mô đất cao có diện tích 11m2. Mộ nguyên trước đây đắp đất hình tròn, đường kính 1m, chính mộ quay về hướng Đông, trước mộ có tấm bia xi măng cao 70cm do cháu nội Trần Văn Kỷ lập năm 1958. Năm 1995, Bảo tàng Lịch sử và cách mạng Thừa Thiên Huế đã trùng tu lại ngôi mộ. Nấm mộ tròn được giữ nguyên, phía trên nấm rắc sỏi, xung quanh xây đường tròn để bảo vệ mộ, bao quanh mộ là một lớp bê tông hình chữ nhật có đường gờ bốn bên. Di tích lăng mộ Trần Văn Kỷ đã được xếp hạng di tích cấp Quốc gia tại Quyết định số 534 -Quyết Định /Bộ Văn hóa Thông tin ngày 11/5/1993 của Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch). Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế 2865 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Văn Xá

Đình Văn Xá thuộc xã Hương Văn, huyện Hương Trà (nay là phường Hương Văn, thị xã Hương Trà), tỉnh Thừa Thiên Huế. Từ thành phố Huế dọc theo Quốc lộ 1A ra phía Bắc khoảng 13km, rẽ phải theo đường làng là đến di tích. Đình Văn Xá được xây dựng vào năm Ất Sửu (1865) dưới thời Tự Đức, là một trong số ít những ngôi Đình có quy mô bề thế, và có giá trị kiến trúc tiêu biểu ở Thừa Thiên Huế. Đình Văn Xá được xây dựng trong khuôn viên rộng khoảng 1.600m2 có la thành bao quanh 4 phía. Trước mặt Đình có hồ bán nguyệt trồng sen. Từ ngoài đi vào đình Văn Xá có cổng Tam quan, bình phong, nhà bia, sân đình và đình. Cổng Tam quan mở ba lối đi vào hình vòm cuốn, tầng mái đúc giả ngói âm dương. Bình phong xây kiểu tổ ong, chính giữa có dựng nhà bia (khắc nội dung về việc xây dựng và trùng tu Đình). Ðình Văn Xá là ngôi nhà rường ba gian hai chái kép, nền đất rộng 400m2, gồm 54 cột trong đó có 8 cột cái cao 5,2m, 16 cột nhì (cột quân) cao 3,6m, 24 cột ba (cột bên) cao 2,5m và 6 cột tư (cột hiên) cao 1,5m. Hệ thống vì kèo chạm trổ tinh vi. Nghệ thuật trang trí đình Văn Xá chủ yếu là "Tứ linh”, “lưỡng long chầu nguyệt" đặc trưng kiến trúc Nguyễn. Mái lợp ngói liệt, bờ nóc đắp cao trông giống một con thuyền được chia ra làm 13 ô trang trí. Ðình Văn Xá thờ vọng Thành hoàng là năm vị tiền khai canh của dòng họ Lê, Trần, Cao và hai vị nhân thần là Bố Chính Dinh Ký Lục Trần Mậu Quế (1688-1762) và Hữu Tham Tri Bộ Lễ Trần Hưng Ðạt (1746-1810). Ðình trùng tu các năm 1961 và năm 1995. Đình Văn Xá đã được xếp hạng là di tích lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật cấp Quốc gia theo Quyết định số 61/1999 Quyết Ðịnh/Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 13-9-1999 của Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch). Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế 2656 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Trung Hành

Trung Hành là tên của một làng thuộc tổng Trung Hành, huyện An Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương xưa, nay thuộc thuộc phường Đằng Lâm, quận Hải An, Hải Phòng. Xưa kia là vùng đất Ngô Quyền đóng quân và huy động sức người, sức của, đánh quân xâm lược Nam Hán năm 938, mở đầu kỷ nguyên độc lập lâu dài của đất nước. Là một trong số 17 làng, xã có hệ thống bố phòng, tích chứa quân lương của Ngô Quyền, nên Trung Hành được các triều đại kế tiếp phong sắc, công nhận việc thờ tự Ngô Vương. Đặc biệt Trung Hành vốn nổi tiếng là vùng đất địa linh, nhân kiệt - nhiều người đỗ đạt, nhiều văn quan, võ tướng có tài, hiện còn được ghi lại trên văn bia, gia phả các dòng họ. Ngạn ngữ có câu: “An Dương - Trung Hành, Kim Thành - Quỳnh Khê, thế ngôn chi đa sĩ”, nghĩa là: làng Trung Hành, huyện An Dương, làng Quỳnh Khê huyện Kim Thành đời truyền có nhiều quan. Miếu - chùa Trung Hành là cụm di tích được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 57. Cụm di tích này tọa lạc trong một khuôn viên rộng rãi và đẹp, nằm cạnh tuyến đường lớn Lê Hồng Phong nối liền sân bay Cát Bi với trung tâm thành phố. Miếu Trung Hành thờ Ngô Quyền có quy mô vừa phải. Miếu được trùng tu lớn vào khoảng thế kỷ 17 mà dấu vết còn để lại trên 4 cây cột cái sơn son tại tòa bái đường. Những điểm nổi bật của di tích là sự hợp lý, liên hoàn của toàn bộ khuôn viên di tích. Miếu có quy mô khép kín, được bố cục theo kiểu nội công ngoại quốc gồm: cổng tam quan, toà bái đường, hai bên giải vũ và tòa hậu cung (cung trong và cung ngoài). Nhưng lại tạo ra một không gian mở bởi 2 bên nhà giải vũ đứng song hành nơi bái đường với thềm hiên cung ngoài. Trong miếu còn lưu giữ được 5 bản sắc phong có niên đại từ 1889 đến 1924 (trong đó có 3 sắc phong cổ) và nhiều cổ vật quý khác có niên đại vào thế kỷ 19. NGUỒN: Cổng Thông tin điện tử thành phố Hải Phòng

Hải Phòng 2832 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình làng Xích Thổ

Đình làng Xích Thổ được xây cùng với thời lập làng cách đây khoảng 300 năm, vào cuối thời Lê Trung Hưng. Do thời gian mai một, đình làng cũ bị đổ nát, không còn giữ được thần tích. Khoảng cuối thế kỷ 18, đình, chùa Xích Thổ được xây dựng lại đồng bộ trên nền đất như hiện nay. Qua nhiều lần tu bổ, nay đình làng có khuôn viên rộng 1.200m2, mái cong lợp ngói mũi, xây theo lối chữ Đinh, gồm 5 gian tiền đường, 3 gian hậu cung. Giữa gian tiền đường là ban thờ thành hoàng làng Nam Hải Đại Vương Phạm Tử Nghi. Theo thần tích, ngài sinh vào niên hiệu vua Hồng Thuận, thời Lê, khoảng năm 1509-1516, tại Nghĩa Xá, phường Niệm Nghĩa, quận Lê Chân ngày nay. Là người có sức khỏe phi thường, học ít hiểu nhiều, văn võ tinh thông, ngài đã có công đánh giặc Minh, phò tá nhà Mạc. Đình Xích Thổ nay còn giữ 5 đạo sắc phong thần của ngài qua các triều vua: Duy Tân, Thành Thái, Đồng Khánh, Tự Đức, Khải Định. Năm 1924, vua Khải Định sắc phong ngài là Phúc thần, ghi vào điểm lễ triều đình, truyền cho các nơi thờ phụng lâu dài. Vì thế ngoài Xích Thổ, hiện nay ở các làng ven sông Lạch Tray đều có đình, đền thờ hoặc thờ vọng bài vị ngài. Đặc biệt đình làng Xích Thổ còn lưu giữ được 3 pho tượng cổ làm bằng gỗ, có niên đại khoảng 200 năm của thành hoàng Phạm Tử Nghi (thời Mạc), Bạch Xích Đại Vương (thời tiền Lý), Bộ Quốc (Triều Trần). Bên cạnh đó, đình còn lưu giữ được bia đá hậu thần (thần bia phả ký) đầu thế kỷ 19, thời vua Thành Thái ghi công những người đã có nhiều đóng góp vào việc tu bổ đình, chùa, đảo hồ đình. Bên cạnh đình làng là chùa Hưng Khánh. Nếu ai có dịp đến vãn cảnh chùa, được nghe tiếng chuông chùa ngân nga bên những cánh đồng quê bát ngát và dòng Lạch Tray lộng gió, sẽ thấy tâm hồn mình thật yên ả, thư thái. Đây là một ngôi chùa mang vẻ đẹp cổ kính, lưu giữ nhiều giá trị văn hóa lịch sử của Xích Thổ. Trong chùa còn lưu giữ nhiều pho tượng gỗ quý hiếm gần 200 tuổi và 1 pho tượng phật bằng đá có từ 500 năm trước. Chiếc chuông lớn (đại hồng chung) của chùa Hưng Khánh được đúc bằng đồng tại tổng Kiều Yêu từ thế kỷ 19 đến nay vẫn còn nguyên vẹn. Trên thân chuông có khắc bài phú sinh động, giàu ý nghĩa văn hóa. Sau năm 1954, hòa bình được lập lại, đình và chùa Xích Thổ lại là nơi học tập của con em Xích Thổ. Từ 1965-1975, đình, chùa Xích Thổ là nơi hội họp, tập trung đưa tiễn con em của làng lên đường tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nơi đây còn là điểm sơ tán của nhiều đơn vị trong thời kỳ đó như: Bộ đội thông tin Quân khu 3, Công ty Xây lắp Hải Phòng, Trường dạy nghề xí nghiệp sửa chữa ô tô Đồng Tâm quốc tế… Qua 2 cuộc kháng chiến vĩ đại của đất nước, đình, chùa làng Xích Thổ thực sự là căn cứ địa cách mạng của vùng An Dương, đã trở thành một chứng nhân lịch sử, nơi ghi dấu, nhắc nhớ nhiều thế hệ con người quê hương về những năm tháng hào hùng, đáng tự hào. Năm 2013, quần thể đình, chùa, bia tưởng niệm mẹ Việt Nam anh hùng và liệt sỹ làng Xích Thổ đã được thành phố công nhận là Di tích lịch sử kháng chiến. NGUỒN: Cổng Thông tin điện tử thành phố Hải Phòng

Hải Phòng 2944 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Từ Lâm

Đình Từ Lâm thuộc xã Đồng Minh, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng thờ vị thành hoàng Hoa Duy Thành, một danh tướng thời Trần có công tham gia đánh đuổi giặc Mông Nguyên thế kỷ 13. Về thân thế, công lao của vị thành hoàng được ghi trong bảng thần tích được lưu giữ tại đình do Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc thứ nhất (1572) và truyền thuyết tại địa phương cho biết: Hoa Duy Thành người làng Linh Động, huyện Vĩnh Lại, trấn Hải Dương (nay là thông Bảo Hà, xã Đồng Minh, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng), xuất thân trong một gia đình quan lại quý tộc có thế lực trong vùng, thông minh, khỏe mạnh, am hiểu binh pháp, văn võ song toàn, được mọi người mến mộ. Nghe tin giặc Mông kéo sang xâm lược nước ta lần thứ II (1285), Hoa Duy Thành tự bỏ tiền của tuyển mộ, huấn luyện quân sĩ. Khi triều đình mở khoa thi tuyển mộ nhân tài, ông là người đỗ đạt cao và trở thành vị tướng tâm phúc dưới quyền của Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo, đảm trách đạo quân tinh nhuệ hộ giá Vua Trần rút khỏi vòng vây của giặc từ vùng biển An Bàng (Hải Phòng Quảng Ninh ngày nay) vào vùng Châu Ái (tức Thanh Hóa) an toàn theo kế sách của Hưng Đạo Đại Vương. Trong cuộc chiến chống xâm lược Nguyên Mông lần thứ 3 (1287 1288), Hoa Duy Thành được lệnh đem quân bảo hộ phối hợp với các cánh quân truy kích địch trên sông Bạch Đằng, góp phần làm nên chiến thắng lẫy lừng trong lịch sử dân tộc. Quét sạch quân thù, Hoa Duy Thành trở về quê hương sinh sống, được nhà vua ban tặng trang Từ Đường, sử dụng làm điền trang của mình. Khi ông mất, dân làng lập đền thờ ngay tại nơi xưa kia ông luyện binh mã. Đến thời Lê, đền Từ Đường được tu sửa trở thành đền Từ Đường và tôn ông làm Đương cảnh thành hoàng. Đến thời Khải Định. Từ Đường được đổi tên thành Từ Lâm như hiện nay, vì kiêng tên húy nhà vua. Trang trí kiến trúc của Đình thể hiện khá công phu, tỉ mỉ. Các hình hoa lá cách điệu, các đề tài tứ linh, tứ quý chạm nổi trên các thanh rường, câu đầu, bẩy hiên thật khéo léo, sinh động. Còn mỗi đầu dư hình rồng, kỹ thuật chạm bong kênh được sử dụng tinh vi, giúp chúng ta xác định niên đại tạo dựng của đình vào khoảng thế kỷ thứ 17 (thời Lê). Đình Từ Lâm được nhà nước công nhận di tích lịch sử năm 1991. NGUỒN: Cổng Thông tin điện tử thành phố Hải Phòng

Hải Phòng 2668 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa