Cứ điểm Bồ Bồ nằm ở vùng núi Đất Sơn, thuộc xã Điện Tiến, huyện Điện Bàn là một vùng đồi thấp rộng khoảng 215 héc ta, có độ cao 55 mét. Núi Đất Sơn có 5 điểm cao là Sùng Công, Giồng Ngang, Giồng Lạc, Bồ Bồ và Đất Ký. Đây là địa bàn chiến lược, khống chế cả một vùng từ Tây Điện Bàn đến Hòa Vang và một phần phía Đông huyện Đại Lộc. Vì vậy, sau khi đưa quân trở lại chiếm đóng nước ta, quân Pháp đưa một đại đội đến chiếm đóng Bồ Bồ và biến nơi đây thành cứ điểm vững chắc nằm trong hệ thống phòng thủ từ xa bảo vệ căn cứ Đà Nẵng. Trong chiến cuộc Đông - Xuân 1953-1954, trước sự tấn công dồn dập cả quân sự, chính trị binh vận của quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng, địch hoàn toàn rơi vào thế cô lập. Nhiều đồn bót của địch chỉ cách Đà Nẵng vài chục cây số về phía nam phải tiếp tế bằng máy bay, bộ máy ngụy quyền tan rã ở nhiều nơi. Để cứu vãn tình hình, Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp tại miền Trung đã điều động một lực lượng cơ động từ chiến trường Tây Nguyên quay về Đà Nẵng. Chúng tập trung bốn đại đội khinh binh, ba đại đội thủy quân cơ giới, ba đại đội công binh với hơn 800 tên, 110 xe cơ giới, 10 ca nông và nhiều trọng đại liên mở cuộc hành quân “Con Báo” phá vùng du kích Điện Bàn, chiếm lại cứ điểm Bồ Bồ nhằm giải tỏa, tiếp tế cho quân địch ở Ái Nghĩa, Phong Thử trên đường 100, củng cố tuyến phòng thủ nam bắc sông Cẩm Lệ, bảo vệ Đà Nẵng. Trước đó, ngày 9-6-1954, các đơn vị bộ đội địa phương Điện Bàn đã mở cuộc tập kích lần thứ nhất vào cứ điểm Bồ Bồ, tiêu diệt toàn bộ bọn địch ở đây thu được 1 khẩu pháo 57 ly. Căn cứ tình hình thực tế trên chiến trường, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng quyết định lợi dụng yếu tố bất ngờ, dùng chiến thuật tập kích đánh địch ngay khi chúng vừa đặt chân đến Bồ Bồ để diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, bẻ gãy cuộc hành quân của chúng, bảo vệ cơ sở, tài sản và tính mạng của nhân dân. Chấp hành chủ trương ấy công tác chuẩn bị được khẩn trương tiến hành. Nhân dân các xã Điện Hồng, Điện Tiến, Điện An, Điện Hòa tham gia đắp đường, hăng hái đi dân công phục vụ tiền tuyến. Khẩu hiệu hành động lúc này là “Tất cả cho chiến thắng”, ta đã huy động 500 dân công hỏa tuyến, 650 dân công thu chiến lợi phẩm. Ngoài ra, còn một số dân công khác cũng được bố trí cách trận địa 1.500 mét sẵn sàng chi viện cho chiến trường. Đúng 0 giờ 30 ngày 19-7-1954, ta bắt đầu khai hỏa nã đạn vào các điểm cao của địch ở cứ điểm Bồ Bồ. Hỏa lực vừa dứt thì các mũi tiến công của ta đồng loạt ào lên đánh chiếm các vị trí, chia cắt đội hình địch. Lúc đầu, địch hỗn loạn nhưng sau đó, chúng ổn định lại đội hình, chống trả điên cuồng. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt. Pháo địch từ Giồng Ngang và đồi Sùng Công bắn chặn đường tiến. Nhưng, các chiến sĩ của ta vẫn kiên trì bám sát trận địa, dũng cảm đánh chiếm sân bay, tràn vào khu trung tâm. Người trước ngã, người sau tiếp bước. Các chiến sĩ ngoan cường bám sát trận địa, lợi dụng địa hình địa vật đánh chiếm sân bay, diệt 4 xe địch. Ở Giồng Ngang, ta diệt thêm 3 xe. Khi ta tràn vào trung tâm, địch dùng xe tăng và trọng pháo chống cự quyết liệt. Ta bắn hỏng xích, nhảy lên xe dùng lựu đạn đánh vào tháp pháo tiêu diệt. Các mũi khác xung phong tràn vào chiếm lĩnh trận địa. Hết đạn, nhiều đồng chí dùng lưỡi lê đâm địch, vật lộn với kẻ thù. Trước tinh thần chiến đấu ngoan cường của ta, địch đành phải bỏ chạy. Nhân dân và du kích Điện Bàn vây chặt, không cho tên nào chạy thoát. Kết quả, ta đã diệt 159 tên địch, bắt sống 293 tên, thu 142 súng từ tiểu liên đến đại liên. Đây là trận đánh ta bắt được nhiều tù binh Âu Phi nhất trên chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng. Cuộc hành quân của địch nhằm chiếm lại cứ điểm Bồ Bồ đã bị thất bại hoàn toàn. Chiến thắng Bồ Bồ sáng 19-7-1954 thể hiện sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời của Tỉnh ủy, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, đồng thời thể hiện tinh thần liên tục tiến công tiêu diệt địch. Chiến thắng Bồ Bồ đã góp phần cùng cả nước kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, buộc chúng phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Đông Dương ngày 20-7-1954. Chiến thắng Bồ Bồ mãi mãi đi vào lịch sử như một “Điện Biên Phủ” trên chiến trường Quảng Nam trong kháng chiến chống Pháp. Tưởng nhớ đến những anh hùng, chiến sĩ cách mạng, đồng chí, đồng bào đã ngã xuống trong trận đánh Bồ Bồ, đúng vào lúc 19h ngày 19/7/2024, tại Tượng đài Chiến thắng Bồ Bồ, xã Điện Tiến, Thị ủy – Hội Đồng Nhân Dân – Uỷ Ban Nhân Dân – Uỷ Ban Mật Trận Tổ Quốc Việt Nam thị xã Điện Bàn long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 70 năm chiến thắng Bồ Bồ (19/7/1954 - 19/7/2024) và đón Bằng xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia Di tích Địa điểm chiến thắng Bồ Bồ. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Đà Nẵng 2411 lượt xem
Là di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia, thuộc thôn 1, xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Tam Kỳ khoảng 35 km về phía tây. Cụ Huỳnh Thúc Kháng sinh năm 1876, quê làng Thạnh Bình - Tiên Phước, là một người thông minh học giỏi, một chí sĩ yêu nước. Đỗ Tiến sĩ năm 1904, đến năm 1908, cụ Huỳnh đứng đầu phong trào Duy Tân ở miền Trung, bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo . Năm 1927 sau khi ra tù,cụ Huỳnh thành lập tờ báo Tiếng Dân nhằm tuyên truyền đấu tranh yêu nước. Sau khi cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, cụ Huỳnh được Bác Hồ mời ra làm Bộ Trưởng Bộ Nội vụ rồi có thời gian giữ chức quyền Chủ tịch nước. Năm 1947, cụ Huỳnh mất tại Quảng Ngãi khi đi kinh lý Miền Trung. Nhà lưu niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng là ngôi nhà cũ tọa lạc trong khu vườn rộng có diện tích gần 4.000m2 do thân sinh cụ Huỳnh Thúc Kháng xây dựng từ năm 1869, theo lối kiến trúc rất phổ biến dưới thời nhà Nguyễn. Ngôi nhà gồm 3 gian, mái ngói, khung sườn gỗ với những đường nét chạm trổ tinh xảo. Tổng thể kiến trúc bên trong mang đậm dấu ấn kiến trúc thời Nguyễn với các trính lượn cong, trên trính có các trỏng quả kê trên con đội chạm hình đầu lân. Một căn bếp được xây dựng kề với nhà trên và được nối bởi một cửa bên hông. Bên trái và bên phải nhà được ngăn nhô ra phía trước. Bên phải là phòng ăn chung cả gia đình. Phía trái có ngăn phòng lồi là nơi cụ Huỳnh Thúc Kháng làm việc. Gian giữa đặt bàn thờ tổ tiên, quanh bàn thờ có chạm khắc hoa văn cách điệu hình con dơi ngậm chuỗi vòng và một đôi rồng bằng gỗ mít. Chính giữa bàn thờ đặt mục chủ (đề tên các ông bà, thân nhân của cụ Huỳnh đã qua đời). Phía trước là mục thấp hơn, hiện thờ cụ Huỳnh Thúc Kháng. Hiện trong ngôi nhà vẫn còn bảo tồn được không gian làm việc khi xưa của cụ Huỳnh cùng những vật dụng sinh thời cụ Huỳnh hay dùng trong đó có cả chiếc áo cụ Huỳnh mặc khi tham gia chính phủ năm 1946….Nhà lưu niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng đến nay đã được trùng tu tôn tạo nhiều lần, đây không chỉ là di tích cấp quốc gia, mà còn là một “địa chỉ đỏ” để thế hệ trẻ tìm về nhận diện truyền thống, tiếp nối chí hướng cha ông. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
Đà Nẵng 2514 lượt xem
Ngày 12/3/2024, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có Quyết định số 608/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch về việc xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia đối với mộ chí sĩ Đỗ Đăng Tuyển, xã Đại Cường, huyện Đại Lộc. Chí sĩ Đỗ Đăng Tuyển (1856- 1911) sinh ra và lớn lên ở làng Ô Gia, xã Đại Cường, huyện Đại Lộc. Ông từng giữ một chức quan nhỏ ở triều đình nhà Nguyễn. Khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, ông từ quan về quê. Năm 1885, vua Hàm Nghi phát động phong trào Cần Vương, Đỗ Đăng Tuyển tham gia Nghĩa hội Quảng Nam- một phong trào hưởng ứng chiếu Cần Vương tại Quảng Nam. Ông được giao chức Tán tương quân vụ chuyên phụ trách vận động lương thực, tiền bạc cho các hoạt động của Nghĩa hội. Năm 1904, ông là một trong 5 thành viên tham gia sáng lập Duy Tân hội. Năm 1910, ông bị chính quyền tay sai và thực dân Pháp bắt giữ và đưa tới nhà lao Lao Bảo (Quảng Trị) giam cầm. Tại đây, ông đã tuyệt thực hơn 1 tuần và hy sinh vào ngày 02/5/1911. Ngày 27/4/2021, Huyện ủy Đại Lộc đã tổ chức Hội thảo khoa học "Cuộc đời và sự nghiệp của chí sĩ Đỗ Đăng Tuyển" nhân kỷ niệm 165 năm ngày sinh (14/5/1856 - 14/5/2021) và 110 năm ngày mất (2/5/1911 - 2/5/2021) của ông. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Đà Nẵng 2533 lượt xem
Giếng Nhà Nhì thuộc thôn 5, xã Điện Ngọc, huyện Điện Bàn, cách thành phố Hội An 15km về phía bắc theo đường Hội An – Đà Nẵng, cách Thành phố Đà Nẵng 5 km về hướng Nam. Trong phong trào đồng khởi phá kèm ở Điện Bàn, Đội đặc công của tỉnh, được giao nhiệm vụ tổ chức thọc sâu về vùng cát Điện Nam - Điện Ngọc đánh thu hút địch, tạo điều kiện cho các xã vùng A, B của huyện nổi dậy phá kìm kẹp của địch, giành quyền làm chủ . Đội có 7 người, do đồng chí Hiền làm đội trưởng, Võ Như Hưng- đội phó và các đội viên gồm Đặng Thật, Nguyễn Rìu, Nguyễn Sỹ, Trần Thọ, Trần Đại Nghĩa cùng 3 cán bộ của huyện Điện Bàn là Võ Tiến (tức Thụ)-Thường vụ Huyện ủy, Lê Tựu và Đặng Bảo Chí. Trận đánh diễn ra trong sự chênh lệch quá lớn về lực lượng. Ta chỉ có 10 chiến sĩ, trang bị 8 tiểu liên, 2 súng ngắn, 2kg thuốc nổ TNT, và mỗi chiến sĩ được trang bị 150 viên đạn và một ít lựu đạn. Địch phát hiện và điều 1 đại đội biệt kích, 10 trung đội bảo an, dân vệ (khoảng 500 lính) được trang bị đầy đủ vũ khí và phương tiện thông tin liên lạc bao vây. Nhưng với tinh thần “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, “lấy vũ khí địch đánh địch”, “mỗi viên đạn một quân thù” các chiến sĩ ta đã quần lộn đánh địch suốt chiều dài của vùng đất Điện Nam và Điện Ngọc, cuối cùng địch dồn lực lượng bao vây, đội phải trụ tại giếng cạn nhà bà Nhì (Điện Ngọc), hơn 4 tiếng đồng hồ đội đã đẩy lùi hàng chục đợt tấn công, tiêu diệt gần trăm tên địch. Ta tổn thất 4 đồng chí hi sinh, 1 bị thương. Sau trận đánh vẻ vang này, Đồng chí Lê Tấn Hiền (Viễn) được cử đi báo cáo thành tích tại quân Khu. Chiến công to lớn của đội công tác đã được Mật Trận Dân Tộc Giải Phóng Khu Trung Trung Bộ phong tặng danh hiệu Bảy dũng sĩ Điện Ngọc và tặng thưởng Huân chương Giải phóng hạng Nhất. Cách Di tích lịch sử cấp Quốc gia Giếng Nhà Nhì là Tượng đài các Dũng sĩ Điện Ngọc được xây dựng với quy mô uy nghi tượng trưng cho khí thế cách mạng, sự chiến đấu ngoan cường của các dũng sĩ Điện Ngọc. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Đà Nẵng 2346 lượt xem
Trần Quý Cáp (1870 - 1908), tự Dã Hàng, Thích Phu, hiệu là Thái Xuyên. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo ở thôn Thai La, làng Bất Nhị, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Trần Quý Cáp là một trong ba nhân vật kiệt xuất của phong trào Duy Tân. Ông không chỉ là một nhà lãnh đạo cách mạng lỗi lạc mà còn là một nhà thơ có tài. Thơ văn của ông mang hơi thở của thời đại, là tiếng nói chân thành của một trái tim nồng nàn yêu nước, thể hiện tư tưởng tình cảm của tầng lớp nho sĩ tiến bộ những năm đầu thế kỷ XX. Ông tham gia phong trào Duy Tân chống Pháp, sau đó bị bắt giam vào năm 1908, dù không tìm ra chứng cứ nhưng thực dân Pháp vẫn xử chém ngang lưng mà người đời gọi đó là bản án Mạc tu hữu. Hiện nay vẫn còn đền thờ ông ở thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, Khánh Hòa. Gia đình đã đưa di cốt Chí sĩ Trần Quý Cáp cải táng tại quê nhà tại nghĩa trang Gò Bướm, làng Bất Nhị, xã Điện Phước, huyện Điện Bàn vào năm 1925. Đến năm 1938, nhân dân đã quyên góp xây dựng lại lăng mộ khá khang trang. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, mặc dù chiến tranh tàn phá gây hư hỏng nặng nề, nhưng con cháu cùng gia tộc vẫn chăm lo gìn giữ lăng mộ. Năm 1994, Lăng mộ Chí sĩ Trần Quý Cáp được huyện Điện Bàn và gia đình, gia tộc Trần Văn làng Bất Nhị xây dựng lại theo kiến trúc lăng mộ cũ ở Khánh Hòa. Năm 2000, Lăng mộ Chí sĩ Trần Quý Cáp được công nhận là di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Đà Nẵng 2273 lượt xem
Lăng mộ Tổng đốc Hoàng Diệu tọa lạc tại thôn Xuân Đài, xã Điện Quang, huyện Điện Bàn. Được Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia năm 1994. Chí sĩ Hoàng Diệu (1829- 1882) xuất thân trong một gia đình nho giáo tại làng Xuân Đài - xã Điện Quang - huyện Điện Bàn (nay là thị xã Điện Bàn). Ông là vị danh tướng nổi tiếng học rộng, tài cao (19 tuổi đỗ cử nhân, 24 tuổi đỗ phó bảng) và là người thanh liêm, chính trực, thương dân. Ngày 25 tháng 4 năm 1882 thực dân Pháp tấn công thành Hà Nội, trong một trận đấu không cân sức, ông thắt cổ tự vẫn chứ không chịu giao nộp thành. Lúc đó, ông đang giữ cương vị tổng đốc Hà - Ninh. Cái chết oanh liệt của ông là một tấm gương anh hùng trung liệt, cổ vũ cho các tầng lớp chí sĩ và nhân dân cả nước đứng lên đấu tranh giành độc lập. Mộ ông được cải táng về quê nhà và được trùng tu tôn tạo 2 lần vào năm 1982 và năm 1998. Khuôn viên rộng rãi, thoáng mát, được con cháu trông nom, chăm sóc. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Đà Nẵng 2657 lượt xem
Dải núi Bàn Than, đảo Hòn Mang, Hòn Dứa là các di chỉ đá biến chất thuộc phức hệ Khâm Đức - Núi Vú. Địa chất ở đây có độ tuổi đến 400 triệu năm, được đẩy nhô lên khỏi mặt nước biển qua một đợt kiến tạo địa chất. Các phiến đá sẫm màu đen tuyền, hình dáng như những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc. Ngoài ra, Bàn Than - Hòn Mang - Hòn Dứa còn có các bãi biển dài trong xanh, hoang sơ và mảnh đất Thuận An với nhiều nét văn hóa độc đáo của miền biển. Khu vực Tam Hải nói chung, Bàn Than - Hòn Mang - Hòn Dứa nói riêng là điểm đến với nhiều tiềm năng về du lịch của Núi Thành. Phong cảnh kỳ vĩ, đẹp đẽ do thiên nhiên tạo tác thực sự hấp dẫn cho những ai đến với danh lam thắng cảnh này. Năm 2017, Bàn Than - Hòn Mang - Hòn Dứa được Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh xếp hạng di tích cấp tỉnh. Thời gian qua, chính quyền và nhân dân dành nhiều sự quan tâm để bảo vệ, khai thác hiệu quả di sản. Trước đó, năm 2003, xã Tam Hải phối hợp Trung tâm Bảo tồn sinh vật biển vận động nhân dân tìm hiểu giá trị rạn san hô, làm sạch biển; chấp hành pháp luật trong khai thác, đánh bắt thủy sản. Đồng thời thực hiện dự án bảo tồn và sử dụng bền vững hệ sinh thái rạn san hô Tam Hải; triển khai nhiều hoạt động quảng bá danh thắng Bàn Than - Hòn Mang - Hòn Dứa. Ngày 24/02/2023, Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch có Quyết định số 393 công nhận Bàn Than - Hòn Mang - Hòn Dứa là di tích quốc gia. Nguồn Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch.
Đà Nẵng 2496 lượt xem
Nước Oa là một địa danh nằm dưới chân núi Hòn Bà hùng vĩ, thuộc địa phận xã Trà Tân, huyện Trà My (nay là huyện Bắc Trà My). Đây là vùng rừng núi rậm rạp; ở phía trước, hai con sông Trường và sông Nước Oa tạo nên triền đất bãi bồi quanh co kéo dài và liên kết các thung lũng lớn nhỏ, cao thấp bên trong, tạo thuận lợi cho việc tiến thoái, ẩn trú, cất giấu vũ khí, xuất quân, ém quân và di chuyển, khai thác nguồn lương thực, thực phẩm, thuốc men tại chỗ để tồn tại lúc ngặt nghèo nên nơi đây đã được Khu uỷ khu 5 lựa chọn là căn cứ địa cách mạng trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Chính tại Khu căn cứ này, Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu 5 đã cùng nhau vạch ra đường lối chiến lược cụ thể để chỉ đạo quân dân khu 5 đánh Mỹ. Nơi đây đã từng diễn ra các Hội nghị, Đại hội quan trọng, là địa điểm tập huấn cho các cán bộ Trung đoàn, Sư đoàn, cán bộ các tỉnh trong toàn Khu về học tập Nghị quyết của Đảng... góp phần cùng cách mạng miền Nam giành thắng lợi trong việc ký kết Hiệp Định Paris năm 1973, tiến tới giành giải phóng miền Nam. Với những giá trị lịch sử đó, ngày 04/8/1992, Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã công nhận Khu di tích Nước Oa là di tích cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Nam.
Đà Nẵng 2363 lượt xem
Tháp Bằng An thuộc xã Điện An, huyện Điện Bàn,nằm sát đường 609 (nối Vĩnh Điện với Ái Nghĩa) là còn tương đối nguyên vẹn.Theo các nhà nghiên cứu, thì tháp Bằng An được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ X, có kiến trúc độc đáo, hoàn toàn không giống bất cứ ngôi tháp nào, tồn tại ngày hôm nay trên cả nước. Nhìn tổng thể, Tháp Bằng An mang hình linga (dương vật), nằm giữa không gian rộng thoáng. Linga biểu tượng của thần Siva, nơi đây dùng làm nơi thờ cúng và tế lễ của người Chăm. Tháp được xây theo hình bát giác, mỗi cạnh dài 4m, cao 21mét 5. Bên trong thờ một Linga bằng đá (hiện nay chỉ còn bệ thờ). Phía trước tháp hiện còn hai con vật bằng đá: Sư tử và voi. Theo các nhà nghiên cứu văn hoá Chăm, Tháp Bằng An là một di tích có giá trị cao về mặt kiến trúc, liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng của người Chăm. Do đó năm 1989, Tháp Bằng An được Bộ Văn hoá công nhận là di tích cấp quốc gia. Vào năm 1943, do chiến tranh tàn phá, Tháp bị hư hại phần tiền sảnh, các kỹ sư người Pháp đã tiến hành trùng tu. Nhưng tiếc thay không nắm vững kỹ thuật, người Pháp đã xây gạch bằng xi măng (mạch hồ rộng), do đó đã phá vỡ kiến trúc độc đáo của người Chăm (giữa các viên gạch xây không có mạch hồ). Với một kiến trúc độc đáo, lại nằm vị trí thuận lợi và đẹp, Tháp Bằng An là địa chỉ lý tưởng cho du khách tham quan trong và ngoài nước. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Đà Nẵng 2332 lượt xem
Phước Trà hiện nay là một xã thuộc huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam. Trong Kháng chiến chống Mỹ , nơi đây đã từng được chọn đặt căn cứ của Khu ủy 5 từ năm 1973 đến 1975. Để sự chỉ đạo được kịp thời nhằm đối phó lại âm mưu và thủ đoạn của địch sau Hiệp định Paris (27-1-1973), Khu ủy và Bộ Tư lệnh Khu 5 quyết định dời căn cứ từ Nước Oa (Trà My) về Phước Trà(Hiệp Đức). Phước Trà cách thị trấn Tân An khoảng 15km về phía tây, cách tỉnh lộ 612 khoảng 4km về phía nam, từ đây tỏa về vùng đồng bằng có nhiều đường thuận tiện và nhanh chóng cả thủy lẫn bộ. Đây là khu căn cứ lớn, gồm một hội trường, nơi làm việc của các đồng chí lãnh đạo và các cơ quan chuyên môn. Tại đây cũng đã diễn ra Đại hội lần thứ 3 của Ban Chấp hành Đảng bộ Khu 5 và nhiều cuộc hội nghị của Khu ủy và Bộ Tư lệnh khu đề ra kế hoạch Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, theo tinh thần của Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 1-1975 giải phóng miền Nam. Tại đây, Bảo tàng tỉnh Quảng Nam đã sưu tập và trưng bày một số hiện vật, hình ảnh hoạt động ở khu căn cứ này trong thời kỳ 1973-1975. Khu căn cứ Phước Trà đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử- văn hóa cấp quốc gia (Quyết định số 281/ Quyết Định -Bộ Trưởng ngày 24-3-1993) Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Nam.
Đà Nẵng 2185 lượt xem