(BNP) – Đền Bà Chúa Kho nằm trên lưng chừng núi Kho, thuộc khu Cổ Mễ, phường Vũ Ninh (thành phố Bắc Ninh). Đền được lập từ thời Lý, ban đầu vốn là ngôi miếu nhỏ, vào thời Lê, được trùng tu, mở rộng thành khu Đền lớn. Đến nay, Đền Bà Chúa Kho đã được Nhà nước xếp hạng di tích Lịch sử - Văn hoá cấp Quốc gia và được tỉnh Bắc Ninh công nhận là một trong 14 điểm du lịch của tỉnh. Đền Bà Chúa kho là trung tâm sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của người dân miền Bắc. Đền là nơi tổ chức lễ hội truyền thống của nhân dân địa phương vào các ngày 12 - 15 tháng Giêng, với nhiều nghi lễ và trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Nếu có dịp, người dân Bắc Ninh thường mời bạn bè, du khách thập phương về vãn cảnh, hành hương tại Đền Bà Chúa Kho một lần. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH BẮC NINH
Bắc Ninh 3120 lượt xem
Chùa Kim Đài, còn có tên là chùa Quỳnh Lâm, khu phố Xuân Đài, phường Đình Bảng, thành phố Từ Sơn được thiền sư Định Không hưng công xây dựng từ thế kỷ thứ XIII. Trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, đến nay ngôi chùa vẫn giữ được kiến trúc xưa, là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân địa phương và điểm thăm quan của du khách thập phương khi về với quê hương nhà Lý. Chùa Kim Đài là nơi thờ Phật, thờ Tổ, thờ Mẫu và phối thờ 2 vị tổ là thiền sư Định Không, thiền sư Lý Khánh Văn. Chùa được xây dựng trong khuôn viên rộng gần 3.800m2, có kiến trúc hình chữ Đinh, gồm các hạng mục: Tam quan, Tam bảo, nhà Tổ, nhà Mẫu, nhà Ni, lầu Quan Âm… Cổng chùa (Tam quan) được xây dựng quy mô đồ sộ, gồm cổng chính và 2 cổng phụ 2 bên, phía trên mái chồng diêm kiểu “2 tầng 8 mái đao cong”. Tam bảo gồm Tiền đường và Thượng điện liên kết với nhau tạo thành mặt bằng kiến trúc hình chữ Đinh. Tiền đường gồm 5 gian, 2 trái, có kiến trúc kiểu “4 mái đao cong”. Trên nóc tòa Tiền đường đắp nổi 3 chữ Hán “Kim Đài tự”. Thượng điện gồm 3 gian, kết cấu kiểu “thượng chồng rường, hạ chồng rường bảy hiên”. Nhà Tổ và nhà Mẫu có 4 gian, kiến trúc “bình đầu bít đốc tay ngai”. Hệ thống tượng phật được đặt ở hành lang 2 dãy nhà 7 gian. Chùa hiện còn lưu giữ được hệ thống tượng thờ, hoành phi, câu đối cùng nhiều hiện vật cổ có giá trị thời Nguyễn.. Đường đi vào chùa rợp bóng cây xanh, cây cảnh các loại… Trong những năm tiền khởi nghĩa, chùa Kim Đài còn là nơi cán bộ cách mạng, du kích địa phương hoạt động bí mật. Hội chùa được tổ chức vào ngày mùng 9 tháng Giêng âm lịch hằng năm để tưởng nhớ công ơn các bậc tiền nhân có công với vương triều Lý. Chùa Kim Đài được nhà nước xếp hạng là di tích cấp tỉnh theo Quyết định số 61/QĐ-UBND ngày 5/01/2009. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh 2556 lượt xem
Cách Hà Nội chừng 33km về hướng Đông và nằm sát bờ Nam đê sông Đuống, làng Hồ hay Đông Hồ là một làng nghề cổ truyền, có tên Nôm là làng Mái nay thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đây là cái nôi của dòng tranh khắc gỗ dân gian đặc sắc được nhiều người cả trong và ngoài nước biết đến, với những bức tranh từ lâu đã đi vào đời sống tinh thần bao người dân Việt. Từ Hà Nội muốn đi Đông Hồ, du khách xuôi theo Quốc lộ 5 (đường đi Hải Phòng) chừng 15km đến ga Phú Thụy thì rẽ trái, đi tiếp chừng 18 km sẽ đến phố Hồ, huyện lỵ của huyện Thuận Thành. Từ đây rẽ trái đi thêm chừng 2km là đến làng Hồ. Du khách cũng có thể đi hết phố Hồ rồi lên đê, rẽ trái đến điếm canh đê thứ hai sẽ có biển chỉ đường vào Đông Hồ. Đông Hồ là một làng nhỏ với hơn 220 hộ dân, sinh sống bằng nghề làm tranh và hàng mã nhiều hơn làm nông nghiệp, nơi còn lưu giữ cách làm tranh cổ xưa nhất của vùng đất Kinh Bắc. Ca dao Việt Nam đã có những khắc họa thật sinh động về làng tranh Đông Hồ với hình ảnh một làng quê dung dị nằm nép mình bên dòng sông Đuống hiền hòa, nổi bật với những chuẩn mực đạo đức được cổ súy giữ gìn qua bao đời, đã tạo nên cung cách ứng xử độc đáo của người làng Mái: trọng danh dự, khí tiết, ăn nói lịch lãm, trên dưới thưa gửi rõ ràng và hiếm khi trong làng có người to tiếng chửi mắng nhau… “Hỡi cô thắt lưng bao xanh Có về làng Mái với anh thì về Làng Mái có lịch có lề Có ao tắm mát có nghề làm tranh.” Xuất hiện từ khoảng thế kỷ XVI, tranh Đông Hồ được hình thành bằng phương pháp thủ công, là kết tinh của sự khéo léo và nhẫn nại, cộng với nghệ thuật thẩm mỹ đầy tinh tế… Đây không phải là những bức tranh được vẽ theo cảm hứng nhưng được in lại qua những bản khắc, và để có bản khắc đạt đến độ tinh xảo, đòi hỏi ở người vẽ mẫu cũng như người khắc ván phải có lòng yêu nghệ thuật và trình độ kỹ thuật cao. Tranh Đông Hồ có đến 180 loại được phân thành 5 loại chính gồm tranh thờ, tranh lịch sử, tranh chúc tụng, tranh sinh hoạt và truyện tranh. Có thể nói giai đoạn từ nửa cuối thế kỷ XIX đến năm 1944 là thời cực thịnh của làng tranh, với 17 dòng họ trong làng đều tham gia làm tranh. Qua những năm kháng chiến chống Pháp, do chiến tranh tàn phá khốc liệt nên nghề làm tranh cũng tạm bị gián đoạn. Đến khi hòa bình lập lại ở miền Bắc nhất là khi đất nước thống nhất thì làng tranh mới được khôi phục. Đáng tiếc là qua mấy chục năm đổi mới theo nền kinh tế thị trường và với sự tác động của các trào lưu nghệ thuật phương Tây, nhận thức và xu hướng xã hội cũng có sự thay đổi đẩy dòng tranh Đông Hồ đối mặt với sự tồn vong của chính mình (!). Hàng năm, từ tháng Ba đến tháng Bảy cả làng làm hàng mã, sang tháng Tám đến tháng Chạp lại tất bật mùa tranh Tết, khắp làng rực rỡ sắc màu của giấy điệp. Đặc biệt làng Hồ có hội vào rằm tháng Ba âm lịch, trong ngày hội làng có những nghi thức truyền thống như tế thần, thi mã, thi tranh rất vui vẻ… Trong số các dòng tranh dân gian Việt Nam được biết đến như Hàng Trống (Hà Nội), Kim Hoàng (Hà Nội - Hà Tây cũ), Đông Hồ (Bắc Ninh), làng Sình (Huế)…, tranh Đông Hồ nổi bật nhờ gắn liền với làng quê thôn xóm, với đời sống bình dị của người dân nông thôn, rất gần gũi với cộng đồng người dân Việt… Tranh Đông Hồ được in trên giấy Dó, một loại giấy được làm thủ công từ nguyên liệu là cây Dó mọc trên rừng giống như vỏ cây Bạch đàn. Cây Dó đem về cho vào cối giã nhỏ, rây thành bột mịn, sau đó dùng bột này chế biến thành giấy Dó. Do trên nền giấy thường được quét bằng một lớp hồ hoặc nhựa thông có pha loại bột từ vỏ sò Điệp giã nhỏ tạo màu sáng lấp lánh nên còn được gọi là giấy Điệp. Người làng Hồ đã biết vận dụng, chắt lọc từ những chất liệu thiên nhiên để tạo nên những sắc màu truyền thống vừa tươi vừa có độ bền màu, như màu xanh da trời được chiết suất từ gỉ đồng; màu chàm được chiết suất từ lá cây Chàm ở Lạng Sơn; màu đỏ thắm từ vỏ cây Vang; màu đỏ son từ đá sỏi khai thác trên núi; màu vàng từ hoa Hòe hay rơm nếp; màu đen từ tro Xoan hay tro lá cây Tre; màu trắng ngà óng ánh sáng điệp là do bởi chất điệp được chế biến từ vỏ ốc hay vỏ sò của vùng biển Quảng Ninh… Đây là những màu cơ bản, không pha trộn và mỗi màu tương ứng với một bản khắc gỗ nên thường tranh Đông Hồ chỉ giới hạn ở bốn màu. Riêng đề tài được lấy từ chính đời sống, sinh hoạt sản xuất hay xuất phát từ triết lý phồn thực, tuy dung dị nhưng cũng rất gần gũi với sinh hoạt đời thường. Từ những nhân vật trong truyền thuyết hay trong tích truyện, những cảnh đẹp của non sông đất nước, đến những bức tranh mang ý nghĩa cầu chúc, những sinh hoạt đời thường như “Vinh hoa phú qúy”, “Hái dừa”, “Đánh ghen”, “Mục đồng thổi sáo”, “Đám cưới chuột”…, tất cả đều hàm chứa những triết lý nhân văn sâu sắc. Không áp dụng các nguyên tắc về ánh sáng hay luật cận - viễn của tranh đương đại với bố cục chặt chẽ về cơ thể học, các nghệ sĩ sáng tác tranh dân gian chỉ bằng lối vẽ đơn tuyến bình đồ đã tạo nên dòng tranh Đông Hồ mang nhiều tính ước lệ cả trong miêu tả lẫn trong bố cục, đã đưa người xem tranh lạc vào thế giới của những nét vẽ ngây ngô, đơn giản nhưng cũng rất thú vị. Đặc biệt trên mỗi bức tranh, bao giờ nghệ nhân cũng đề một vài chữ Hán hoặc chữ Nôm (ngày xưa) hay câu thơ lãng mạn, tình tứ (ngày nay) càng khiến cho tranh thêm đậm đà ý vị… Tranh Đông Hồ khá gần gũi với đời sống nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng và các tỉnh, thành phía Bắc, hình ảnh của nó đã đi vào thơ, văn và có cả trong chương trình học. Trong bài thơ “Bên kia sông Đuống”, nhà thơ Hoàng Cầm đã làm toát lên hồn dân tộc trong nghệ thuật tranh dân gian Đông Hồ: “Tranh Đông Hồ Gà, Lợn nét tươi trong, Màu dân tộc sáng bừng trên giấy Điệp.” Nhà thơ Tú Xương lại có mấy dòng minh họa tranh Đông Hồ khá hóm hỉnh: “Đì đoẹt ngoài sân tràng pháo Chuột, Lòe loẹt trên vách bức tranh Gà.” Điều đó đã nói lên mối tương quan giữa tranh Đông Hồ với không khí ngày Xuân trong đời sống nông thôn. Trước kia tranh Đông Hồ được làm ra chủ yếu phục vụ cho dịp tết Nguyên đán, người dân nông thôn mua tranh về dán trên tường để trang trí trong dịp tống tiễn năm cũ và chào đón năm mới, hết năm lại lột bỏ và thay bằng tranh mới. Thú chơi tranh ngày ấy thật thâm trầm, tao nhã khi những ước mong về một năm mới tốt đẹp được người chơi tranh ý nhị gởi gắm vào nội dung bức tranh mình chọn mua. Đông Hồ có chợ tranh tấp nập vào tháng Chạp với năm phiên chợ vào các ngày 6, 11, 16, 21, 26. Mới tờ mờ sáng dòng người khắp nơi đã đổ về làng Hồ nhộn nhịp như trẩy hội. Có nhiều người đến để mua bán tranh nhưng cũng không ít người đến chỉ để thỏa trí tò mò hay muốn thưởng lãm tranh Đông Hồ. Nhiều người không quản ngại đường xa đã lặn lội về đây với tâm niệm ngày Tết có một vài bức tranh Đông Hồ treo trong nhà thì coi như năm đó gia đình sẽ yên ấm, gặp nhiều may mắn, làm ăn sung túc… Những người con làng Hồ đi đâu cũng nhớ đến câu ca dao: “Dù ai buôn bán trăm nghề, Nhớ đến tháng Chạp thì về buôn tranh”. Mỗi năm đã có hàng vạn bức tranh được bán ra, sau phiên chợ tranh cuối cùng, những gia đình nào còn lại tranh đều bọc kín đem cất chờ đến mùa tranh năm sau lại đem ra chợ tranh bán. Tranh làng Hồ đã được nhiều người coi như đặc sản của xứ Kinh Bắc. Không chỉ có người Hà Nội và dân một số tỉnh thành trong nước sành điệu, yêu thích tranh Tết Ðông Hồ về tham quan tìm hiểu và chọn mua, mà không ít du khách, những người trong lĩnh vực hội họa, mỹ thuật của nước ngoài cũng đến để nghiên cứu về nghệ thuật tranh dân gian nổi tiếng của làng Hồ. Sau khi hòa bình lập lại vào năm 1954, làng tranh Đông Hồ đã được khôi phục, nhiều tổ hợp tác sản xuất được thành lập. Đây là thời điểm tranh Đông Hồ được xuất khẩu sang các nước xã hội chủ nghĩa. Trong những năm 1985 - 1990, do tác động của nền kinh tế thị trường và việc thay đổi cơ chế chính trị ở các nước Đông Âu, việc xuất khẩu tranh gặp nhiều khó khăn đang khi thị hiếu thẩm mỹ của người dân cũng có nhiều chuyển biến trước những du nhập quá mới mẻ từ các nước phương Tây. Do không tìm được đầu ra cho tranh mà hầu như cả làng đều chuyển qua làm hàng mã để sinh sống. Phải công nhận nghề vàng mã đã tạo công ăn việc làm đáng kể cho mọi người, từ người già đến trẻ con đều có thể tận dụng những lúc rảnh rỗi để tham gia sản xuất. Cũng nhờ nghề vàng mã phát triển mà kinh tế người làng Hồ khấm khá hơn, đời sống người dân đã có nhiều thay đổi, những ngôi nhà tranh vách đất cũ kỹ đã được thay bằng các ngôi nhà cao tầng hiện đại… Đã có lúc tưởng như một dòng tranh dân gian nổi tiếng với bề dày lịch sử đang dần bị mai một, nhưng với lòng yêu nghề của nhiều nghệ nhân trong đó phải kể đến gia đình các ông Nguyễn Đăng Chế và Nguyễn Hữu Sam mà nghề làm tranh Đông Hồ đã được khôi phục với sắc diện và sinh khí mới. Trong nỗ lực làm sống lại nghề tranh Đông Hồ, ông Chế đã vận động con cháu đóng góp xây dựng “Trung tâm giao lưu văn hóa dân gian tranh Đông Hồ” rộng đến 5.500m². Trung tâm đã tạo ra được một không gian văn hóa độc đáo, trở thành địa chỉ không thể thiếu đối với các tour du lịch làng nghề. Mỗi năm trung tâm đã đón hàng chục nghìn lượt khách cả trong và ngoài nước đến tham quan tìm hiểu và mua sản phẩm. Một trong những điều làm khách du lịch vô cùng thích thú là được hướng dẫn để tự tay làm ra sản phẩm tranh Đông Hồ. Thời may, nhờ ít người còn tha thiết với việc làm tranh nên tranh của gia đình hai ông làm ra đều bán được, thỉnh thoảng cũng có du khách nước ngoài đến tìm mua tranh. Thu nhập nhờ đó cũng tạm ổn giúp họ có thêm động lực tiếp tục giữ gìn và phát triển nghề truyền thống. Điểm đáng mừng là sau một thời gian chạy theo luồng tranh “thời thượng”, nhiều người cũng kịp nhận ra vẻ đẹp tiềm ẩn trong sự mộc mạc giản dị của tranh dân gian và quay lại với cái thú chơi và treo tranh Đông Hồ, nhất là trong những ngày Tết. Hy vọng cùng với việc tỉnh Bắc Ninh xây dựng hồ sơ ứng cử quốc gia cho nghề tranh Đông Hồ để đệ trình Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc (UNESCO) công nhận di sản văn hóa thế giới, vận may sẽ lại mỉm cười với làng tranh Đông Hồ để tranh Đông Hồ giữ mãi nét tươi trong và sáng bừng trên giấy Điệp… Nguồn: Tranh dân gian đông hồ
Bắc Ninh 3467 lượt xem
Đền Tam Phủ (hay còn có tên là đền Ba Vua), thuộc xã Cao Đức, huyện Gia Bình, nơi tôn thờ 3 vị chí tôn: Thiên Phủ, Địa Phủ, Thuỷ Phủ - Vua của ba cõi tự nhiên (Trời - Đất - Nước) đã tạo hoá lên muôn loài. Theo tư liệu ở địa phương, đền được khởi dựng từ lâu đời trên gò đất cao giữa bãi Nguyệt Bàn - là một bãi bồi lớn, vây quanh là sông nước mênh mông. Di tích gắn liền với sự kiện lịch sử các vua quan nhà Trần triệu tập Hội nghị Bình Than (hội nghị quân sự) bàn kế sách đánh thắng giặc Nguyên - Mông xâm lược nước ta vào thế kỷ XIII (năm 1282) đã lên bãi Nguyệt Bàn - Đền Tam Phủ làm lễ tế cáo trời đất, cầu mong thắng giặc, giữ yên bờ cõi. Trải qua các giai đoạn lịch sử, ngày nay di tích đền Tam Phủ còn gìn giữ được những di vật cổ có niên đại vào thời Lê - Nguyễn và được trùng tu, tôn tạo khang trang. Phía trước là đền thờ “Ba Vua” gồm 3 toà: đền Thượng, đền Trung và đền Hạ; phía sau khuôn viên đền còn có một số công trình như: chùa thờ Phật, điện thờ Mẫu Liễu Hạnh. Trong đó, có giá trị lịch sử, kiến trúc nổi bật nhất là ngôi đền thờ “Ba vua” gồm 3 tòa: tiền tế, trung đền và hậu cung. Tòa tiền tế được xây dựng theo kiến trúc 3 gian 2 trái, mái đao cong, khung dựng hoàn toàn bằng gỗ lim với nhiều đường nét chạm trổ hình rồng, phượng, cây cỏ, hoa lá… tinh vi. Nơi đây có ban thờ đức Thánh Trần (Hưng Đạo vương - Trần Quốc Tuấn) - người đã có công đánh giặc Nguyên Mông ở vùng cửa Đại Than, được nhân dân nơi đây lập đền thờ và các triều vua ban tặng sắc phong. Trung đền được xây dựng theo kiến trúc 3 gian 2 trái, mái đao cong, có kiến trúc tương tự như tòa tiền tế, là nơi đặt ban thờ Ngũ vị tiên ông, Đức ông và Bà chúa Lục Đầu Giang. Đặc biệt, trên khám thờ có treo bức hoành phi cổ bằng tiếng Hán “Tam phủ linh từ” (đền tam phủ linh thiêng), cột hai bên treo câu đối: “Vạn cổ nguy nga Tam Phủ điện/Thiên thu đột ngột Lục đầu giang”. Di tích Đền Tam Phủ và địa điểm Bãi Nguyệt Bàn được UBND tỉnh xếp hạng di tích lịch sử văn hoá năm 2007. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh.
Bắc Ninh 3089 lượt xem
Từ lâu, trong tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam, mỗi khi nói về làng xã không ai quên nhắc tới ngôi đình làng, bởi đó là sự kết tinh trí tuệ, công sức, sự thịnh vượng của làng xã, niềm kiêu hãnh của làng xã, nơi chứng kiến và diễn ra các hoạt động lớn nhỏ của cả làng... là nơi các chàng trai, cô gái gửi gắm, bày tỏ tâm tình. "Qua đình ngả nón trông đình Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu" Cách Hà Nội 20km về phía Bắc, Đình làng Đình Bảng (Đình Bảng) thuộc thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh (xưa là Hương Cổ Pháp). Vùng địa linh này là quê hương Lý Công Uẩn (tức Lý Thái Tổ), người lập ra triều Lý và khai sáng kinh đô Thăng Long (năm 1010). Đình Bảng có cả cụm di tích văn hóa, nhất là những di tích về thời Lý, tạo thành một khu lưu niệm độc đáo, âm vang lịch sử, có tầm cỡ quốc gia, đủ cả: Đình, Đền, Chùa, Lăng, Tẩm .... đặc trưng của văn hóa làng Việt Nam . Đình làng Đình Bảng là một ngôi đình cổ kính nổi tiếng nhất của đất Kinh Bắc, được xây dựng năm 1700 và đến năm 1736 mới được hoàn thành, do công đầu của quan Nguyễn Thạc Lượng, người Đình Bảng và bà vợ đảm đang Nguyễn Thị Nguyên quê ở Thanh Hóa đã mua gỗ lim về dân làng xây dựng, ngôi đình có thế trường tồn (Nay ngôi nhà cổ của ông Nguyễn Thạc Lượng cho dựng thử trước khi cho dựng Đình Bảng vẫn còn và được gìn giữ bảo tồn). Đình Bảng là nơi hội tụ văn hoá tín ngưỡng, nguyên trước Đình thờ 3 vị nhiên thần: Cao Sơn đại vương (Thần Đất), Thuỷ Bá đại vương (Thần Nước) và Bạch Lệ đại vương (Thần Trồng Trọt), đây là các vị thần được cư dân nông nghiệp tôn thờ, cầu mong mưa thuận gió hoà cho mùa màng tươi tốt. Hàng năm vào tháng 12 âm lịch nhân dân lại mở hội cầu khẩn cho một năm mùa màng bội thu. Cũng tại đình làng nhân dân cũng thờ Lục Tổ (6 vị có công lập lại làng vào thế kỷ XV. Sau này khi đền Lý Bát Đế bị thực dân pháp phá năm 1948, nhân dân đã tiếp nhận bài vị của tám vị vua triều Lý về thờ tại đình Đình Bảng. Đình Đình Bảng là hình ảnh độc đáo của kiến trúc dân tộc, giữ được hình ảnh toàn vẹn kiểu thức nhà sàn dân tộc được áp dụng cho kiến trúc đình làng. Nhìn lại lịch sử từ buổi đầu dựng nước, hình ảnh ngôi nhà sàn còn in giữ trên các trống đồng Đông Sơn - Một sáng tạo của cha ông ta trong lĩnh vực kiến trúc nhà ở. Không thể đem ngôi đình đồ sộ sau mấy mươi thế kỷ đem so sánh với những nhà sàn trên trống đồng Đông Sơn nhưng phải nhận thấy cả hai mẫu hình này có phong thái thống nhất, có sự kế thừa và phát triển truyền thống kiến trúc được xác lập từ buổi đầu dựng nước. Đình Đình Bảng là một công trình kiến trúc quy mô, nguyên trước có cả tam quan, cửa giữa xây hai trụ gạch kiểu lồng đèn cao, hai bên có cửa cuốn tò vò giả mái, phía sau là khoảng sân rộng, hai bên là hai dãy tả vu và hữu vu. Cũng như mọi ngôi đình khác, công trình quan trọng nhất của Đình Đình Bảng về mặt kiến trúc nghệ thuật là toà Bái Đường (Đại Đình). Bái Đường của đình có hình chữ nhật, dài 20m, rộng 14m chia làm bảy gian, hai chái nằm trên nền cao bó đá xanh có hai bậc cấp. Vẻ đồ sộ của đình thể hiện qua phần mái toả rộng chiếm 2/3 chiều cao tổng thể và 6 hàng, khoảng 60 cột lim lớn nhỏ có đường kính từ 0,55- 0,65 mét được đặt trên các tảng đá xanh vuông vức. Khi bước vào lòng đình, quý khách được đón chào và bị cuốn hút bởi tất cả sự tinh hoa của nghệ thuật chạm khắc thế kỷ XVIII. Sự cuốn hút đầu tiên với mọi du khách là bức cửa Võng lớn ở cung giữa thuộc gian ngoài. Bức Võng phủ kín một diện rộng, kéo dài từ Thượng lương xuống Hạ xà và mở ngang hết một gian. Cửa Võng được chạm lộng kết hợp chạm nổi tinh xảo trên cả 7 lớp, 9 ô các đề tài tứ linh, tứ quý.... phía trên bức cửa Võng là bức trần gỗ che kín mái gian giữa với hình trang trí là một con chim Phượng xoè rộng cánh tới các vầng vân mây quanh đó. Hoa văn trang trí trên các cấu kiện kiến trúc khác rất đa dạng, chạm trổ tinh vi, chau chuốt, hài hoà. Kết cấu bộ khung đình khá vững chắc, gắn với nhau bằng các loại mộng theo lối chồng giường "Thượng tam, hạ tứ". Mỗi bức chạm khắc ở đình là một tác phẩm nổi tiếng độc nhất vô nhị. Càng chiêm ngưỡng, càng thêm bị cuốn hút: Bức "Bát mã quần phi" thể hiện sự sống động, thấy được sự phóng khoáng và nét thanh bình của mảnh đất này qua hình ảnh và tư thế của từng chú ngựa. Bức Lưỡng nghê phục chầu, con đực, con cái, mỗi con một vẻ. Những bức chạm rồng tuyệt xảo: Long vân đại hội, Ngũ long tranh châu, Lục long ngự thiên...từng bức, từng bức gợi tả bao điều. Suốt hơn 200 năm kể từ khi khởi dựng, cho đến nay đình Đình Bảng đã đi vào đời sống tình cảm và là niềm tự hào của người xứ Bắc cũng như nhân dân cả nước: "Thứ nhất là đình Đông Khang Thứ nhì Đình Bảng, vẻ vang đình Diềm" Đình Đông Khang ngày nay không còn, cái mà hôm nay ta còn được chiêm ngưỡng lại là Đình làng Đình Bảng. Với vẻ đẹp về quy mô kiến trúc, nghệ thuật chạm khắc, nghệ thuật trang trí và cái quý giá hơn là đình Đình Bảng cho du khách một cái nhìn trọn vẹn của kiến trúc đình làng được xây dựng vào nửa đầu thế kỷ XVIII, trong khi các ngôi đình khác không còn giữ được dáng vẻ nguyên vẹn nữa. NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC NINH
Bắc Ninh 2782 lượt xem
Chùa Phả Lại hiện tọa lạc trên đỉnh núi Phả Lại thuộc xã Đức Long, thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Đây là công trình văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng được khởi dựng từ lâu đời, gắn bó suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển của địa phương. Chùa Phả Lại vốn được khởi dựng từ lâu đời. Theo các thư tịch cổ cho biết, vào khoảng niên hiệu Thái Ninh (1075 - 1075) đời vua Lý Nhân Tông, chùa Phả Lại được thiền sư Giác Hải (người Gia Vĩnh, Thanh Hóa) và Dương Không Lộ đứng ra hưng công xây dựng với quy mô lớn. Thời kỳ này, chùa có quy mô cả trăm gian, bao gồm các công trình: Chùa phật, chùa Hộ, chùa Am, Tam quan nội, Tam quan ngoại, Điện kính thiên, Gác chuông, Gác trống, Tăng thất... Thời Trần, nhà vua nhiều lần về đây ngắm cảnh, làm thơ và cho phép nhà chùa tu bổ lớn. Quy mô gồm: Điện kính thiên, Bốn cây tháp lớn, Gác chuông, Gác trống, Tam bảo, Đền thờ thánh Dương Không Lộ và Khổng Minh Không, hai bên là hai dãy hành lang. Dưới chân núi, trước điện Kính thiên là Đền hạ và Ao rồng, phía đông triền núi là chùa Cổ Am. Cũng trong thời gian này, chùa được đổi tên thành "Chúc Thánh tự", ngôi chùa được sử sách ghi chép lại như sau: “Từ 1407, khi nước ta có giặc Minh sang xâm lược chùa Chúc Thánh đã bị giặc Minh tàn phá, chúng đã lấy hết chuông đồng, đỉnh đồng… để làm vũ khí, súng đạn. Những đồ vật khí khác cũng bị chúng lấy”. Khi Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa, dẹp giặc Minh, một số đồ phật khí khác cũng được hoàn trả lại chùa. Thời Lê Trung Hưng, chùa Phả Lại tiếp tục được tu bổ tôn tạo, nhân dân cùng nhà chùa và các công hầu, quý tử quyên góp tiền của, thuê thợ tạc đá xanh làm lại điện Kính thiên, Tam bảo, Đền, Am, Tháp… Đồng thời cũng cho mở lò nung gạch, ngói tại phía Bắc đồi của chùa để cung cấp gạch ngói xây dựng các công trình và mở lò đúc đồng, đúc những đồ tế khí cần thiết. Sau mỗi lần tu sửa chùa, nhà chùa cho lập các bia công đức, bia hậu để lưu lại cho đời sau. Trải qua nhiều năm từ thời Lê qua thời Nguyễn, chùa Phả Lại tiếp tục tu bổ và cung tiến các đồ phật khí như: Khám, Ngai, Lư hương, Long án, quả, bài vị, chuông… Năm 1884, thực dân Pháp chiếm đóng trên núi Phả Lại, chúng tàn phá gần như bằng địa và định lập đồn bốt ở đây nhưng không thành mà phải kéo sang Phao Sơn lập đồn. Sau đó nhân dân lại tu bổ chùa gồm: 8 gian thờ Khổng Minh Không và Dương Không Lộ, 3 gian Tiền tế, 5 gian chùa phía trước gọi là chùa Cổ Am thờ Phật, 3 Gian Nghè thờ Thành hoàng và hai cây tháp bằng đá. Năm 1947, giặc Pháp lại tới Phả Lại chiếm đóng, phá hủy các công trình trên, chỉ còn một số đồ thờ tự. Năm 1957, nhân dân Phả Lại tiếp tục hưng công phục dựng lại các công trình gồm: 3 gian Tiền tế, 2 gian Hậu cung, 3 gian chùa. Nhiều di vật được quy tụ trả về vị trí như sập đá điện Kính thiên, Rồng chầu, sấu, tượng thánh, bia đá… Năm 1985, nhân dân tiếp tục tu bổ, tôn tạo chùa. Năm 2014, thay bộ cửa bằng gỗ lim. Năm 2018, trùng tu toàn bộ di tích. Hiện nay, Tam bảo chùa Phả Lại có mặt bằng kiến trúc hình chữ Đinh gồm: Tiền đường 3 gian 2 chái 2 dĩ, kiến trúc kiểu 4 mái đao cong. Bộ khung bằng bê tông cốt thép, kết cấu vì nóc kiểu "chồng rường giá chiêng", vì nách gian giữa kiểu "cốn", gian bên kiểu "chồng rường". Thượng điện 2 gian, kết cấu bộ vì kiểu “Thượng chồng chồng rường giá chiêng, hạ chồng rường bảy hiên". Trong không gian di tích còn có đền thờ Đức thánh Khổng Minh Không, gồm 3 toà kiến trúc: Tiền đền 4 gian, Trung đền 4 gian, Hậu đền 2 gian. Ngoài ra, trong không gian di tích còn có toà nhà 3 gian, gian chính giữa đặt ban thờ Thần hoàng. Trải qua biến thiên lịch sử chùa Phả Lại còn bảo lưu được hệ thống tài liệu, cổ vật vô cùng quý giá, có giá trị đặc sắc về nghệ thuật đồng thời chứa đựng nhiều thông tin về lịch sử dân tộc, tiêu biểu như: Bia "Phả Lại tự bi" thời Lê; bản thần tích thần sắc năm 1938; 3 đạo sắc phong niên hiệu Đồng Khánh 2 (1887), Duy Tân 3 (1909), Khải Định 9 (1924); các hiện vật tạo tác thời Nguyễn gồm: long đình; bộ bát biểu; tượng thân Phụ, thân Mẫu Đức thánh Minh Không, bộ tượng Tam thế, tượng Quan âm Tống tử. Chùa Phả Lại là nơi thờ Phật, thờ Mẫu… Nơi đây còn tôn thờ Thiền sư Khổng Minh Không cùng thân phụ, thân mẫu của Ngài. Thiền sư Nguyễn Minh Không (1073 - 1141), người làng Đàm Xá, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Ông là một vị Thiền sư tài năng, có nhiều công lao đóng góp đối với đời sống chính trị, tư tưởng văn hóa của Đại Việt thời Lý, được vua phong làm Quốc sư, chức vị cao nhất trong hệ thống tăng quan nhà Lý. Trong tâm thức dân gian, Nguyễn Minh Không là người có sức mạnh phi thường, đi mây về gió, dời non, lấp biển… là một trong số rất ít những nhân vật lịch sử được dân gian phong Thánh. Ngoài ra ông còn được coi là ông Tổ của ngành y dược và tổ nghề đúc đồng Việt Nam. Từ xưa đến nay chùa Phả Lại luôn là nơi bảo tồn và duy trì những sinh hoạt văn hóa tâm linh, tín ngưỡng của cộng đồng làng xã. Hàng năm, di tích có các ngày sự lệ chính như: Ngày mồng 10 tháng 3 diễn ra lễ hội vui xuân nhằm kỷ niệm ngày Dương Không Lộ về đánh cá và tu ở chùa Cổ Am; Hội đền diễn ra từ ngày 12 đến 15 tháng 8 (Âm lịch). Đặc biệt trong lễ hội có nghi thức rước nước từ Vực Chuông về đền - tương truyền quả chuông chùa thời Lý chìm xuống đó. Các hoạt động trong những ngày sự lệ đã thu hút đông đảo quần chúng nhân dân và khách thập phương về dự hội, góp phần thắt chặt mối đoàn kết cộng đồng làng xã và làm giàu thêm truyền thống văn hoá nước nhà. Chùa Phả Lại, xã Đức Long, thị xã Quế Võ đã được Nhà nước xếp hạng di tích Quốc gia, Quyết định số 100 VH/QĐ ngày 21/01/1989. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THỊ XÃ QUẾ VÕ
Bắc Ninh 2810 lượt xem
Bức cửa võng đình làng Diềm ở xã Hòa Long, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh có tuổi đời hơn 300 năm, là một kiệt tác nghệ thuật chạm khắc gỗ độc nhất vô nhị, đại diện cho đỉnh cao nghệ thuật chạm khắc gỗ kết hợp sơn son thếp vàng thời Lê trung hưng, vừa được công nhận là Bảo vật quốc gia. Đình Diềm hay còn gọi là đình Viêm Xá, xưa thuộc tổng Châm Khê, huyện Yên Phong, nay thuộc thôn Viêm Xá, xã Hòa Long, TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Được hoàn thiện vào niên hiệu Chính Hòa thứ 13 (1692), đây là một trong những ngôi đình thuộc hàng “đệ nhất Kinh Bắc”. Đình Diềm hiện đang lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị nghệ thuật cao, trong đó cửa võng đình Diềm là một kiệt tác nghệ thuật chạm khắc gỗ độc nhất vô nhị. Theo đó mỗi tầng trang trí các chủ đề khác nhau, phân ra các tầng, mảng riêng nhưng cả 5 tầng lại có mối liên kết hài hòa, uyển chuyển, mang vẻ đẹp nhân sinh, đề cao cuộc sống con người lao động và tinh thần dân chủ cũng như khát vọng phồn thực, mong muốn sự sinh sôi nảy nở của con người trong cuộc sống.Lớp trên cùng áp mái có trạm hình mặt trời, mây vờn. Phần kế tiếp được trang trí tinh tế với điểm nhấn là bốn bức tượng cô tiên vén mây nhìn xuống. Ông Nguyễn Kim Vệt, Thủ từ đình Diềm cho biết: "Vẻ đẹp của đình Diềm chính là bức Cửa võng “độc nhất vô nhị”. Bức Cửa võng này chạy dài suốt từ thượng lương ở trên độ cao 7m xuống tận nền đình, gồm bốn tầng lớn xếp theo bậc thấp dần cho đến giáp hao cột cái bên trong. Tầng nào cũng được chạm khắc tinh tế với nhiều hình khối nghệ thuật, biểu tượng tứ linh (long, ly, quy, phụng) và những đề tài đậm chất nghệ thuật”. Lớp chạm trổ ở trung tâm bức cửa võng đều được khắc tinh xảo với các hình tượng đối xứng nhau,thể hiện tay nghề của nghệ nhân điêu khắc xứ Kinh Bắc bấy giờ. Dưới ban thờ đình làng Diềm được chạm khắc hết sức công phu, sống động, tạo nên một tác phẩm nghệ thuật hoành tráng nhưng vô cùng tinh tế. Một bên là voi và người quản tượng, một bên là hình ảnh ngựa người, người ngựa. Năm 1964, đình Diềm đã được Bộ Văn hóa cấp Bằng công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật và vào tháng 1/2020, cửa võng đình làng Diềm được công nhận là Bảo vật Quốc gia. Nằm trong quần thể danh thắng cổ kính, thâm nghiêm của một ngôi làng cổ bên bờ sông Như Nguyệt thuộc đất Thủy tổ Quan họ, di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia đình Diềm cùng với những cổ vật, bảo vật giàu giá trị đã hội tụ, kết tinh vẻ đẹp văn hóa đặc trưng của miền đất nghìn năm văn hiến Bắc Ninh - Kinh Bắc và là một trong những kho báu di sản văn hóa tinh thần quý giá của quê hương, dân tộc. Nguồn: Báo điện tử VOV
Bắc Ninh 2770 lượt xem
Chùa Linh Ứng (Ngọc Khám - Gia Đông - Thuận Thành) nằm bên đường 282 thuộc khu Phố Khám là một di tích lịch sử quan trọng vùng Dâu từ xa xưa với câu ca: “Mồng bảy hội Khám/Mồng tám hội Dâu/Mồng chín đâu đâu cũng về hội Gióng”. Ngôi chùa cổ này trải qua thời gian hàng trăm năm tồn tại nay đã không còn nguyên kiến trúc ban đầu nhưng hiện vẫn giữ được bảo vật là ba pho tượng đá và tấm bia Trùng tu Linh Ứng tự các chung bi kí dựng năm Hoằng Định 13 (1613). Tấm bia đá khổ lớn đặt trên lưng rùa có kích thước 196 x 129 x 26 (cm) viết chữ 2 mặt cho biết nhiều nguồn thông tin quý giá về lịch sử ngôi chùa. Chùa dựng từ thời Trần phù hợp với truyền thuyết “Bên bụt bên bệ” như sau: Tượng ba ông bụt ốc chở từ bên Ấn Độ sang. Thuyền chở tượng đi trước theo sông Thiên Đức hạ bến Bảo Khám (tên cũ làng Ngọc Khám) bên bờ nam. Thuyền chở bệ đi sau lại hạ bến Long Khám (huyện Tiên Du) bên bờ bắc. Dân Long Khám liền cử một đoàn đại biểu sang Bảo Khám đòi tượng. Giữa lúc hai bên còn chưa thương lượng được thì bụt linh hiển bảo tượng đã yên vị ở đâu thì dựng chùa ở đó. Thế là dân Bảo Khám dựng thêm ngôi chùa ở nơi có ba pho tượng đá lấy tên là Linh Ứng tự. Đến đầu thời Lê Trung Hưng có Thái Lộc hầu Lê Đình Chất, đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Kim tử vinh lộc đại phu, quê Bái Thượng (Thanh Hoá) đã bỏ tiền nhà mua gỗ trùng tu chùa gồm xây gác chuông, dựng bia đá, sửa tam bảo, hành lang, thiêu hương, tiền đường, tam quan, tô tượng phật và mua ruộng 1 sào 3 thước cúng vào chùa. Khởi công ngày 11-5 Nhâm Tý (1612), hoàn thành ngày 19-11 cùng năm. Tham gia công đức cùng Thái Lộc hầu Lê Đình Chất còn có nhiều quan lại cao cấp như Thanh quận công Trịnh Tráng (lúc này chưa lên ngôi chúa), Hoa Dương hầu Vương Châu (quê Bình Ngô láng giềng Bảo Khám, sau này thăng quận công, lúc mất được phong vương cho dân thờ). Ba pho tượng đá có kích thước gần như nhau, cao 145 cm. Tuy có truyền thuyết bên bụt bên bệ nhưng thực tế tượng vẫn có bệ đá hình hoa sen, bệ giữa cao 112 cm, hai bệ hai bên cao 105 cm. Tượng ở tư thế tọa thiền, vẻ phương phi khỏe mạnh. Hai pho hai bên mặt hơi cúi, pho giữa mặt hơi ngửa lên. Cả ba pho tượng đều có tóc xoăn nên dân gian quen gọi là bụt ốc. Về trang phục thì cả ba pho đều mặc áo la bào mở rộng phần ngực trang trí dây anh lạc có hoa, lá, tua khiến khi ngắm tượng thấy sinh động. Bệ tượng trang trí hình hoa sen cùng hoạ tiết rồng, mây, dây hoa cúc... mang đậm phong cách thời Trần để minh chứng chùa có từ thời Trần, tức là từ khi có tượng nên có chùa. Qua một số hiện vật khác cho thấy chùa Linh Ứng còn được tu sửa nhiều lần. Đến năm 1952 chùa bị phá huỷ hoàn toàn, tượng đá không có mái che, thậm chí có pho tượng còn bị bay cả đầu xuống ngòi nước của trường cấp 3 Thuận Thành gần đó. Tuy nhiên, với giá trị độc đáo của ba pho tượng đá, năm 1981 Nhà nước đã xếp hạng là Di tích lịch sử nghệ thuật. Sau đó nhân dân địa phương đã xây dựng lại chùa hoàn thiện dần thành danh lam thắng cảnh hiện nay. Nguồn: Báo Bắc Ninh Online
Bắc Ninh 2509 lượt xem
(BNP) – Chùa Dạm là ngôi chùa cổ nằm trên núi Dạm (phường Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh). Chùa thờ Phật và Nguyên Phi Ỷ Lan (dân gian gọi bà là Tấm nên cũng gọi là chùa Bà Tấm). Chùa còn có nhiều tên gọi: Chùa Dạm, Lãm Sơn, “Cảnh Long Đồng Khánh”, “Thần Quang tự”. Sử chép và truyền kể, chùa do đích thân Nguyên Phi Ỷ Lan chọn địa điểm và hưng công xây dựng từ mùa đông năm 1086 đến năm 1094 thì hoàn thành và được coi là “Trung tâm Phật giáo lớn nhất của nước Đại Việt”. Đây là một công trình quan trọng nên vua Lý Nhân Tông rất quan tâm chăm lo và khi chùa hoàn thành đã ban tên “Cảnh Long Đồng Khánh”. Trải qua trường kỳ lịch sử, chùa được trùng tu tôn tạo nhiều lần. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chùa bị dỡ bỏ. Sau khi hòa bình lập lại, năm 1986, nhân dân địa phương xây dựng 3 gian chùa nhỏ trên nền đất cũ để thờ Phật.Kế thừa kết quả khảo cổ học, từ năm 2015 đến nay, cũng như việc tham vấn ý kiến của giới chuyên gia, các nhà khoa học, tỉnh Bắc Ninh đã thực hiện việc quy hoạch tổng thể và xây dựng “khu di tích văn hóa và sinh thái núi Dạm”. Chùa Dạm được trùng tu tôn tạo, với quy mô to lớn, khang trang tố hảo, cùng với hệ thống tượng thờ và đồ thờ tự tại chùa giá trị lớn về nghệ thuật, thẩm mỹ đại diện cho đặc trưng mỹ thuật mỗi thời kỳ. Hiện tòa Tam Bảo có kết cấu mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Công (I); bao gồm các công trình như: Tiền đường, Thiêu hương và Thượng Điện. Toàn bộ công trình làm bằng gỗ lim to chắc khỏe đồ sộ. Tiền đường 7 gian 2 chái 4 mái đao cong; có kết cấu vì nóc kiểu “chồng rường giá chiêng”, vì nách “chồng rường bán giá chiêng”. Nối giữa tiền đường và thượng điện là 3 gian thiêu hương. Thượng điện 3 gian 2 chái 4 mái đao cong, có kết cấu vì tương tự tòa Tiền đường, có hệ thống hiên chạy bao quanh công trình chính. Các hạng mục chùa mới có quy mô kiến trúc đồ sộ được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ lim, đắp vẽ, trang trí tinh xảo bằng kỹ thuật truyền thống. Hệ thống cửa bức bàn mở cả 7 gian, 2 hồi xây tường gạch trổ cửa kiểu chữ “Thọ”. Ngoài ra, chùa còn có Nhà Tổ, nhà Mẫu xây dựng đăng đối hai bên, mỗi tòa 3 gian 2 chái 4 mái đao cong và bộ khung gỗ chịu lực và có kết cấu tương tự nhau. Hiện chùa còn bảo lưu tại cột đá chùa Dạm có niên đại từ thế kỷ XI, đã được công nhận là bảo vật Quốc gia có giá trị về lịch sử, mỹ thuật, thu hút đông đảo các nhà nghiên cứu khoa học về nghiên cứu, tìm hiểu. Trong chùa còn có các tượng thờ và các đồ thờ tự đều mới tạo tác thế kỷ XXI như: 03 tượng Tam Thế, bộ tượng Dida Tam Tôn, bộ tượng Hoa Nghiêm Tam Thánh, 01 tượng Ngọc Hoàng, 01 tượng Di Lặc, 01 tượng Quan âm, tượng Hộ Pháp, tượng Đức Ông, tượng Thánh Hiền, tượng Bát Bộ Kim Cương, tượng Thập Điện Diêm Vương, tượng bà Nguyên Phi Ỷ Lan, tượng Vua Lý Nhân Tông, Hoành phi, câu đối và các đồ thờ tự….. Chùa tòa lạc trên lưng chừng phía Đông - Nam núi Dạm, nhìn xuống cánh đồng trước mặt là núi Con Rùa, xa xa là sông Tào Khê và sông Thiên Đức. Trước cửa chùa có một con mương chạy từ chân núi ra bờ sông gọi là ngòi Con Tên. Giống như hầu hết các ngôi chùa trên làng quê Việt Nam, chùa Dạm là công trình tôn giáo khởi dựng lên từ lâu đời để thờ Phật, thờ Mẫu, thờ các vị sư tổ. Ngoài ra, chùa thờ bà Nguyên Phi Ỷ Lan (người có công xây dựng ngôi chùa vào thời Lý), chùa còn là trung tâm sinh hoạt tôn giáo đạo Phật của nhân dân. Hội chùa diễn ra hàng năm vào ngày 8 tháng 9 (âm lịch). Nhà chùa cùng toàn thể nhân dân sắm sửa lễ vật cúng phật cầu bình an, sức khỏe và may mắn. Ngoài ra vào các ngày như: lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, tuần rằm, mùng một, dịp lễ hội truyền thống, Tết nguyên đán, các phật tử, các vãi và quý khách thập phương về dự lễ hội chùa. Chùa Dạm được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng di tích lịch sử văn hoá - Quyết định số 29 -VH/QĐ ngày 13/01/1964. Nguồn: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TÌNH BẮC NINH
Bắc Ninh 2717 lượt xem
Chùa Tiêu có tên chữ là (Thiên Tâm tự) hay còn gọi là Tiêu Sơn tự, nằm trên lưng chừng núi Tiêu, thuộc xã Tương Giang - thị xã Từ Sơn - tỉnh Bắc Ninh. Nơi lưu giữ những di sản văn hóa quý giá của vương triều Lý và thu hút đông đảo du khách thập phương đến tham quan, tìm hiểu lịch sử. Theo lịch sử ghi lại, chùa Tiêu là nơi Lý Công Uẩn được đầu thai và được Quốc sư Lý Vạn Hạnh nuôi dưỡng, giáo dục trưởng thành sau trở thành bậc minh vương có công khởi lập vương triều Lý và nền văn minh Đại Việt. Thái Tổ họ Nguyễn (Lý), người châu Cổ Pháp Lộ Bắc Giang; mẹ là Phạm Thị, ngày 12 tháng 2 năm thứ 5 niên hiệu Thái Bình (974) sinh ra vua. Vua khi bé đã thông minh, khí độ, rộng rãi, học ở chùa Lục Tổ, sư Vạn Hạnh trông thấy lấy làm lạ nói rằng: Đây là người phi thường sau này lớn lên tất có thể cứu nước, yên dân làm bậc minh chủ thiên hạ. Căn cứ vào sử sách và truyền thuyết dân gian, có thể coi chùa Tiêu có từ thời Tiền Lê. Đến thời Lý đã là một trong những trung tâm Phật giáo lớn, nơi trụ trì của Thiền sư Lý Vạn Hạnh, người có công nuôi dạy Lý Công Uẩn lớn khôn trưởng thành. Chùa Tiêu có nhiều công trình như: Viện Cảm Tuyền, Lầu Tiên Lĩnh, Tiền đường, Thượng điện, Hậu đường… Bên cạnh về phía Đông Nam còn có chùa Trường Liêu. Thời Lê Trung Hưng, chùa Tiêu được trùng tu mở rộng với quy mô lớn theo kiểu chùa trăm gian, nên còn có tên là chùa “trăm gian”. Đến thời Nguyễn, triều vua Bảo Đại, chùa tiếp tục được trùng tu và ghi lại trên câu đầu của toà Tam Bảo. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, quân giặc đã ném bom phá hoại gần như hoàn toàn chùa Tiêu, chỉ còn sót lại một số tượng Phật và đồ thờ tự. Chùa Trường Liêu cũng bị phá hủy, chỉ còn lại ba pho tượng Tam Thế, một pho Đức Chúa và một chuông đồng có tên chùa “Trường Liêu tự chung” đúc năm Thiệu trị 3 (1843). Kiến trúc hiện tại của chùa Tiêu là kiến trúc của những lần trùng tu tôn tạo. Chùa gồm các tòa: Tam bảo, nhà Tổ, nhà khách, gác chuông và các công trình phụ trợ. Tòa Tam bảo được dựng bằng bộ khung gỗ, chạm khắc trang trí hoa lá cách điệu. Nhà Tổ có mái theo kiểu chồng diêm. Tại nhà Tổ có pho tượng cổ Thiền sư Vạn Hạnh và ngai bài vị ghi rõ “Lý triều nhập nội Tể tướng Lý Vạn Hạnh Thiền sư thần vị”. Ngoài những công trình chính, chùa Tiêu còn có một số công trình phụ trợ như: nhà khách, nhà sư… Đặc biệt, chùa Tiêu còn bảo lưu được 14 tháp cổ của các vị sư nổi tiếng từng trụ trì ở đây. Ngoài ra, trên đỉnh núi Tiêu còn có pho tượng Thiền sư Lý Vạn Hạnh cao khoảng 5m. Chùa Tiêu hiện còn bảo lưu được một số cổ vật quý giá thời Lê, Nguyễn, phản ánh về thời Lý như sau: 15 pho tượng Phật bằng gỗ chạm khắc đẹp, 01 pho tượng Thiền sư Lý Vạn Hạnh, 01 bia đá có tên “Lý gia linh thạch” niên đại “Cảnh Thịnh nguyên niên” (1793) ghi chép về lai lịch và công trạng của Lý Công Uẩn, 01 chuông đồng của chùa Trường Liêu, niên đại Thiệu trị ” (1843), 01 bia đá có tên “Cúng điền bi kỷ” niên đại Bảo Đại 3 (1923) và nhiều câu đối, thơ ca, sấm ký… Du khách về với khu di tích chùa Tiêu (Thiên Tâm tự) là tìm về những trang sử sống động tuổi ấu thơ của Lý Công Uẩn, bậc minh vương có công khai lập vương triều Lý và quốc gia Đại Việt. Về chùa Tiêu là về một vùng đất cổ với bao điều bí ẩn gắn với lịch sử, văn hóa của vùng đất Bắc Ninh - Kinh Bắc và của dân tộc Việt Nam. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH BẮC NINH
Bắc Ninh 2614 lượt xem